Cây ngũ sắc hay còn gọi là cây hoa cứt lợn (còn có tên là hoa ngũ sắc, hoa ngũ vị, cây cỏ hôi; tên khoa học là Ageratum conyzoides). Từ lâu, dân gian đã lưu truyền tác dụng chữa viêm mũi xoang của loài cây này.
Cây ngũ sắc hay cây cứt lợn là một loại cây nhỏ, thân nhiều lông mềm, cao chừng 25-50 cm, mọc hoang ở khắp nơi, nhiều nhất là nông thôn. Hoa nhỏ màu tím, xanh. Cây phát triển rất dễ ở mọi loại đất, có những nơi mọc khắp cánh đồng.
Người ta hái toàn cây ngũ sắc, cắt bỏ rễ, dùng tươi hay khô. Cây ngũ sắc có hàm lượng tinh dầu cao. Các thí nghiệm trên động vật cho thấy nó có tác dụng chống viêm, chống phù nề, chống dị ứng trong cả đợt cấp và mãn tính.
Cách sử dụng: Chọn lấy cây ngũ sắc tươi về ngâm rửa sạch rồi để ráo, giã nát, vắt lấy nước tẩm vào bông. Dùng bông này nhét vào lỗ mũi bên đau khoảng 15-20 phút.
Rút bông ra để dịch mủ từ trong xoang và mũi giải phóng ra ngoài rồi xì nhẹ nhàng. Tránh xì mũi mạnh vì lúc đó, mủ từ trong mũi xoang có thể đi qua đường nối thông giữa mũi và tai (gọi là vòi nhĩ) gây viêm tai giữa cấp.
Hiện nay đã có một số thuốc chiết xuất từ cây ngũ sắc, bào chế dưới dạng dung dịch nhỏ mũi, rất thuận tiện cho người sử dụng. Tuy nhiên, bệnh nhân nên tham khảo ý kiến của các bác sĩ tai mũi họng để có chẩn đoán chính xác (loại trừ trước các khối u mũi xoang) và hướng dẫn cách theo dõi khi tự dùng thuốc ở nhà.
Tham khảo thêm công dụng dược lý của cây ngũ sắc:
Liều dùng khi uống trong: từ 15 – 30 g khô (hoặc 30 – 60 g tươi), sắc với nước uống hoặc giã vắt lấy nước cốt uống; dùng ngoài không kể liều lượng.
Một số ứng dụng cụ thể:
Cây ngũ sắc hay cây cứt lợn là một loại cây nhỏ, thân nhiều lông mềm, cao chừng 25-50 cm, mọc hoang ở khắp nơi, nhiều nhất là nông thôn. Hoa nhỏ màu tím, xanh. Cây phát triển rất dễ ở mọi loại đất, có những nơi mọc khắp cánh đồng.
Người ta hái toàn cây ngũ sắc, cắt bỏ rễ, dùng tươi hay khô. Cây ngũ sắc có hàm lượng tinh dầu cao. Các thí nghiệm trên động vật cho thấy nó có tác dụng chống viêm, chống phù nề, chống dị ứng trong cả đợt cấp và mãn tính.
Cách sử dụng: Chọn lấy cây ngũ sắc tươi về ngâm rửa sạch rồi để ráo, giã nát, vắt lấy nước tẩm vào bông. Dùng bông này nhét vào lỗ mũi bên đau khoảng 15-20 phút.
Rút bông ra để dịch mủ từ trong xoang và mũi giải phóng ra ngoài rồi xì nhẹ nhàng. Tránh xì mũi mạnh vì lúc đó, mủ từ trong mũi xoang có thể đi qua đường nối thông giữa mũi và tai (gọi là vòi nhĩ) gây viêm tai giữa cấp.
Hiện nay đã có một số thuốc chiết xuất từ cây ngũ sắc, bào chế dưới dạng dung dịch nhỏ mũi, rất thuận tiện cho người sử dụng. Tuy nhiên, bệnh nhân nên tham khảo ý kiến của các bác sĩ tai mũi họng để có chẩn đoán chính xác (loại trừ trước các khối u mũi xoang) và hướng dẫn cách theo dõi khi tự dùng thuốc ở nhà.
Tham khảo thêm công dụng dược lý của cây ngũ sắc:
- Chữa phụ nữ bị rong huyết sau khi sinh nở.
- Chữa viêm xoang dị ứng
- Phối hợp với nước bồ kết để gội đầu có tác dụng sạch gầu, trơn tóc.
Liều dùng khi uống trong: từ 15 – 30 g khô (hoặc 30 – 60 g tươi), sắc với nước uống hoặc giã vắt lấy nước cốt uống; dùng ngoài không kể liều lượng.
Một số ứng dụng cụ thể:
- Phụ nữ bị rong huyết sau khi sinh nở: Trong dân gian có kinh nghiệm hái chừng 30 – 50 g cây ngũ sắc /cây hoa cứt lợn tươi, đem về rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước cốt và chia 3 lần uống trong ngày. Uống liên tục trong 3 – 4 ngày (Những cây thuốc và vị thuốc VN).
- Trị các chứng bệnh ở yết hầu (bao gồm cả bạch hầu): Hái chừng 30 – 60 g lá cây ngũ sắc / cây hoa cứt lợn tươi; giã nát vắt lấy nước cốt, hòa thêm nước và đường phèn vào, chia 3 lần uống trong ngày; cũng có thể lấy lá phơi khô, tán mịn, dùng làm thuốc bột – ngậm và nuốt dần xuống họng (Tuyền Châu bản thảo).
- Trị nhọt độc sưng đau: Nhổ cả cây ngũ sắc / cây hoa cứt lợn, rửa sạch, trộn với cơm nguội, thêm chút muối, trộn đều, giã nát, đắp vào chỗ có bệnh (Tuyền Châu bản thảo).
- Trị “ngư khẩu tiện độc” (chỉ nên tham khảo, vì cần tìm hiểu thêm): Lá cây ngũ sắc / cây hoa cứt lợn tươi 100 – 120 g, trà bính 15 g. Tất cả đem giã nát, hơ nóng rồi đắp vào chỗ bị bệnh (Phúc Kiến dân gian thảo dược). “Ngư khẩu tiện độc” là tên chứng bệnh ngoại khoa của Đông y, do bị bệnh giang mai, hạch bạch huyết ở bẹn sưng tấy (Syphilitic buto), nếu sưng hạch ở bên trái thì Đông y gọi là “ngư khẩu”, còn ở bên phải gọi là “tiện độc”.
- Sưng đau do giãn gân, sái xương: Lấy một nắm cây ngũ sắc / cây hoa cứt lợn khô, cho vào lò đốt cháy và hun khói vào chỗ đau (Phúc Kiến dân gian thảo dược).
- Cảm mạo phát sốt: Lấy cây ngũ sắc / cây hoa cứt lợn tươi 60g, sắc nước uống (Quảng Tây trung thảo dược)
- Ngoại thương xuất huyết: Lấy một nắm cây ngũ sắc / cây hoa cứt lợn, giã nát đắp vào chỗ bị thương (Quảng Tây trung thảo dược).
- Mụn nhọt mưng mủ chưa vỡ: Lấy một nắm cây ngũ sắc / cây hoa cứt lợn tươi, thêm chút đường đỏ, giã nát đắp vào chỗ bị thương (Quảng Tây trung thảo dược).
- Nga khẩu sang, đinh nhọt sưng đỏ: Lấy 10 – 15 g cành và lá cây ngũ sắc / cây hoa cứt lợn, sắc nước uống (Vân Nam trung thảo dược). “Nga khẩu sang” (miệng con ngỗng), còn gọi là “tuyết khẩu chứng” (miệng như có tuyết bám vào) là tên gọi dân gian của chứng bệnh “viêm miệng ap-tơ” (oral thrush), do nhiễm phải một loại nấm mốc gây nên; thường thấy ở trẻ nhỏ suy dinh dưỡng, tiêu chảy mạn tính, dùng kháng sinh và hormone tuyến thượng thận dài ngày. Chứng trạng: niêm mạc miệng phát đỏ, xuất hiện những nốt trắng hay màng trắng, bệnh kéo dài sẽ lan tới lưỡi, lợi, vòm họng trên, những mảng trắng rất khó lau sạch; bệnh kéo dài có thể gây nhiễm khuẩn đường hô hấp, tiêu hóa…
- Sốt rét, cảm mạo: Lấy 15 – 20 g cành và lá cây ngũ sắc / cây hoa cứt lợn khô, sắc với nước, chia 2 lần uống trong ngày (Văn Sơn trung thảo dược).
- Phong thấp đau nhức, gãy xương (sau khi đã cố định lại): Lấy một nắm cây ngũ sắc / cây hoa cứt lợn tươi, giã nát, đắp vào chỗ đau (Văn Sơn trung thảo dược).