Menu
Trang chủ
Tư Vấn
Bài viết mới
Tìm chủ đề
Mới!
Bài viết mới
Tài liệu mới
Trạng thái mới
Hoạt động mới nhất
Tài liệu
Latest reviews
Tìm Tài liệu
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Trạng thái mới
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Chat
0
Tư Vấn
Đăng nhập
Đăng ký
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Bài viết mới
Tìm chủ đề
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Menu
Trả lời chủ đề
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
Trang chủ
Tư Vấn
BÁC SỸ TRỰC TUYẾN TƯ VẤN
HỎI BÁC SỸ
Tràn khí màng phổi áp lực và những triệu chứng
Nội dung
<p>[QUOTE="Hỏi Đáp Bác Sỹ, post: 39647, member: 11284"]</p><p>Đau ngực đột ngột, khó thở, tức ngực, da xanh tím do thiếu oxy, nhịp tim nhanh, mạch yếu, giảm tỉnh táo, giảm ý thức là triệu chứng của tràn khí màng phổi áp lực. Do căn bệnh này có phác đồ điều trị khá phức tạp, người bệnh cần có sự trợ giúp từ nhân viên y tế.</p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>Nguyên nhân, tác hại và cách điều trị bệnh tràn khí phổi?</strong></span></p><p></p><p></p><p>Câu hỏi bởi: Giấu tên</p><p></p><p>Chào bác sĩ.</p><p></p><p>Bác sĩ có thể nói lí do và tác hại, cách chữa trị bệnh tràn khí phổi không ạ?</p><p></p><p>Cảm ơn bác sĩ!</p><p></p><p><span style="font-size: 12px"><strong>Bác sĩ Đỗ Hữu Thảnh</strong></span></p><p></p><p></p><p>Chào bạn.</p><p></p><p>Tràn khí màng phổi là tình trạng khí lọt vào giữa 2 lá màng phổi làm xẹp phổi. Câu hỏi của bạn mang tính chất bao quát cả một vấn đề, không rõ là bạn muốn giải đáp ở mức độ nào? (mang tính chất phổ cập giới thiệu, tài liệu tham khảo, hay là giáo trình, sách y học…). Trong khuôn khổ của một chương trình giải đáp sức khỏe thì việc giải đáp chỉ mang tính phổ cập, nếu bạn muốn ở mức độ cao hơn thì phải tìm hiểu ở các tài liệu khác.</p><p></p><p>Nguyên nhân tràn khí màng phổi là do vết thương xuyên thành ngực, thủng hoặc vỡ phế nang, vỡ bóng khí, vỡ áp xe phổi, thông giữa hang lao và màng phổi,… Khoảng 20% tràn khí màng phổi là biến chứng của các bệnh nhiễm trùng phổi. Khoảng 40% tràn khí màng phổi do lao và 40% không rõ lí do.</p><p></p><p>Tác hại của tràn khí màng phổi: Bình thường áp lực trong khoang màng phổi là âm (-3 đến – 5 cm H20), khi không khí lọt vào màng phổi thì sẽ làm nhu mô phổi co lại, lồng ngực dãn ra nên dung tích sống, dung tích toàn phần và dung tích cặn giảm. Mức độ rối loạn chức năng hô hấp do tràn khí màng phổi phụ thuộc vào mức độ tràn khí (xẹp phổi) và chức năng của phổi trước khi bị tràn khí. Có thể có tràn máu màng phổi sau tràn khí do thương tổn dây chằng giữa 2 màng phổi. Thông thường thì không khí lọt vào màng phổi khi thở vào và thoát ra khi thở ra, nếu thở ra mà khí không thoát ra được là tràn khí có van do đó gây nên khó thở tăng dần và đưa đến suy hô hấp trầm trọng, đẩy lệch trung thất. Nếu lỗ rò của màng phổi được bít lại thì tràn khí sẽ tiêu dần. Tràn khí màng phổi có thể có biến chứng: tràn máu, dịch màng phổi sau tràn khí, nhiễm trùng mủ màng phổi qua không khí vào màng phổi, suy tim phải cấp, suy hô hấp cấp.</p><p></p><p>Cách điều trị như sau</p><p></p><p>– Điều trị hỗ trợ: Nghỉ ngơi tại giường, nằm tư thế fowler. Tránh lo âu, xúc động, sử dụng thuốc an thần như Seduxen hay Diazépam, Valium … Không làm việc gắng sức sau cơn cấp. Giảm đau, giảm ho, thở ôxy, dùng thuốc kháng sinh…</p><p></p><p>– Xử lý tràn khí: Mục đích là làm cho mô phổi dẫn ra, tránh suy hô hấp cấp vì xẹp phổi. Phương pháp chủ yếu là hút khí màng phổi bằng bơm tiêm, vị trí thường chọn là gian sườn II trên đường trung đòn. Tùy theo loại tràn khí mà có chỉ định khác nhau.</p><p></p><p>Tràn khí màng phổi đóng: Thông thường thì khí tự hấp thụ trở lại sau một thời gian, nếu 3-4 ngày sau mà lượng không giảm khí thì có thể dùng bơm tiêm lớn và kim để hút, không nên hút mạnh, và chỉ hút từ từ, lượng ít để tránh gây shock do thay đổi vị trí các tạng hoặc giảm áp đột ngột.</p><p></p><p>Đối với tràn khí màng phổi mở, phải dẫn lưu màng phổi bằng catheter với áp lực âm, đưa vào liên sườn II đường trung đòn hay liên sườn 4-5 ở đường nách trước, đưa ống thông về phía định phổi, hoặc dùng máy hút (-20 đến 40 cm H20). Sau 3-5 ngày thì kẹp ống thông lại: 24-48 giờ để xem tràn khí có trở lại hay không.</p><p></p><p>Với tràn khí màng phổi có van, đây là một cấp cứu nội khoa nên phải tiến hành nhanh. Nếu không thấy điều kiện thì dùng kim lớn chọc vào màng phổi ở vị trí đã nêu nối với dây chuyền Serum đưa vào một hình chứa Nacl 9‰, nhưng câu dây chuyền xuống 10-15 cm. Nếu có điều kiện dùng kim chọc hút qua máy liên tục, áp lực hút -15 cm H2O.</p><p></p><p>Chúc bạn mạnh khỏe!</p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>đau ngực</strong></span></p><p></p><p></p><p>Câu hỏi bởi: vũ thị nhung</p><p></p><p>Cháu bác sĩ ,cháu ở Xã nguyệt đức -Thuận thành -tỉnh Bắc ninh ak </p><p>Thưa bác sĩ ,chồng cháu năm nay 28 tuổi ,chồng cháu rất hay bị đau ngực nhất là bên trái ,đau nhiều và khó chịu ak ,nhất là những khi bê vật gì nặng hay đội vật gì trên đầu ,Bác sĩ cho cháu hỏi như vậy là ck cháu bị sao ak ? và nếu đi khám thì phải khám những gì để biết ak ?</p><p></p><p><span style="font-size: 12px"><strong>Bác sĩ Đỗ Hữu Thảnh</strong></span></p><p></p><p></p><p>Chào bạn.</p><p>Những biểu hiện như bạn mô tả ở chồng bạn là triệu chứng: Cơn đau thắt ngực</p><p>Cơn đau và các triệu chứng kèm theo thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau; hầu hết mô tả đau như thắt lại, nghẹt, rát, bị đè nặng trước ngực và đôi khi cảm giác buốt giá. Một số bệnh nhân có khó thở, mệt lả, đau đầu, buồn nôn, vã mồ hôi.</p><p>Cơn đau thắt ngực thể hiện tình trạng cơ tim bị thiếu máu, chủ yếu là do suy động mạch vành (tức là động mạch vành cung cấp máu cho tim không đủ theo nhu cầu)</p><p>Cơn đau thắt ngực được phân làm 2 loại: đau thắt ngực ổn định và đau thắt ngực không ổn định.</p><p>– Đau thắt ngực ổn định là tình trạng không có những diễn biến nặng của cơn đau thắt ngực trong vòng vài tuần gần đây. Với đau thắt ngực ổn định thì tình trạng lâm sàng thường ổn định, cơn đau thắt ngực ngắn, xảy ra khi gắng sức, đỡ khi nghỉ và đáp ứng tốt với Nitrates. Đau thắt ngực ổn định thường liên quan đến sự ổn định của mảng xơ vữa.</p><p>– Đau thắt ngực không ổn định là tình trạng bất ổn về lâm sàng, cơn đau thắt ngực xuất hiện nhiều và dài hơn, xảy ra cả khi bệnh nhân nghỉ ngơi và cơn đau ít đáp ứng với các Nitrates. Cơn đau này thường liên quan đến tình trạng bất ổn của mảng xơ vữa động mạch vành.</p><p>Như vậy là bạn phải đưa chồng đi khám ở chuyên khoa tim mạch của các bệnh viện lớn, đủ sức phân định và điều trị bệnh.</p><p>Xét nghiệm cơ bản nhất cần phải làm là: </p><p>– Điện tâm đồ lúc nghỉ.</p><p>Đây là một thăm dò sàng lọc trong bệnh mạch vành. Điện tâm đồ còn giúp phát hiện các tổn thương khác như phì đại thất trái, bloc nhánh, hội chứng tiền kích thích…</p><p>– Điện tâm đồ trong cơn đau: có thể thấy sự thay đổi sóng T và đoạn ST (ST chênh xuống, sóng T âm). Tuy nhiên nếu Điện tâm đồ bình thường cũng không thể loại trừ được chẩn đoán có bệnh tim thiếu máu cục bộ</p><p>Chúc bạn mạnh khỏe</p><p></p><p><span style="font-size: 12px"><strong>Bác sĩ Đỗ Hữu Thảnh</strong></span></p><p></p><p></p><p>Chào bạn.</p><p></p><p>Những biểu hiện như bạn mô tả ở chồng bạn là triệu chứng: Cơn đau thắt ngực Cơn đau và các triệu chứng kèm theo thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau; hầu hết mô tả đau như thắt lại, nghẹt, rát, bị đè nặng trước ngực và đôi khi cảm giác buốt giá. Một số bệnh nhân có khó thở, mệt lả, đau đầu, buồn nôn, vã mồ hôi. Cơn đau thắt ngực thể hiện tình trạng cơ tim bị thiếu máu, chủ yếu là do suy động mạch vành (tức là động mạch vành cung cấp máu cho tim không đủ theo nhu cầu) Cơn đau thắt ngực được phân làm 2 loại: đau thắt ngực ổn định và đau thắt ngực không ổn định.</p><p></p><p>Đau thắt ngực ổn định</p><p></p><p>là tình trạng không có những diễn biến nặng của cơn đau thắt ngực trong vòng vài tuần gần đây. Với đau thắt ngực ổn định thì tình trạng lâm sàng thường ổn định, cơn đau thắt ngực ngắn, xảy ra khi gắng sức, đỡ khi nghỉ và đáp ứng tốt với Nitrates. Đau thắt ngực ổn định thường liên quan đến sự ổn định của mảng xơ vữa.</p><p></p><p>Đau thắt ngực không ổn định</p><p></p><p>là tình trạng bất ổn về lâm sàng, cơn đau thắt ngực xuất hiện nhiều và dài hơn, xảy ra cả khi bệnh nhân nghỉ ngơi và cơn đau ít đáp ứng với các Nitrates. Cơn đau này thường liên quan đến tình trạng bất ổn của mảng xơ vữa động mạch vành.</p><p></p><p>Như vậy là bạn phải đưa chồng đi khám ở chuyên khoa tim mạch của các bệnh viện lớn, đủ sức phân định và điều trị bệnh. Xét nghiệm cơ bản nhất cần phải làm là:</p><p></p><p>Điện tâm đồ lúc nghỉ </p><p>Đây là một thăm dò sàng lọc trong bệnh mạch vành. Điện tâm đồ còn giúp phát hiện các tổn thương khác như phì đại thất trái, bloc nhánh, hội chứng tiền kích thích…</p><p></p><p>Điện tâm đồ trong cơn đau</p><p>có thể thấy sự thay đổi sóng T và đoạn ST (ST chênh xuống, sóng T âm). Tuy nhiên nếu Điện tâm đồ bình thường cũng không thể loại trừ được chẩn đoán có bệnh tim thiếu máu cục bộ</p><p></p><p>Chúc bạn mạnh khỏe</p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>Đau ngực kéo dài</strong></span></p><p></p><p></p><p>Câu hỏi bởi: Giấu tên</p><p></p><p>Thưa bác sĩ. Cháu năm nay 24 tuổi bị đau ngực kéo dài 3 năm nay. Đau 2424 trừ lúc ngủ không biết. Bác sĩ đã thử nhấn tay quanh vùng đau nhưng không đau chỉ đau bên trong. Và bị triệu chứng khó thở. Có nhiều đờm. Đi khám rất nhiều bệnh viện: thử máu, siêu âm tim, ổ bụng, nước tiểu x quang… nhưng tất cả đều kết luận là không bị sao, chỉ bị viêm phế quản nhẹ, mà uống thuốc vẫn ko hề đỡ, vậy bác sĩ tư vấn giúp em. Cháu có nên chụp CT không ạ. Và nếu chụp thì chụp ở đâu. Giá thành cũng là vấn đề vì hiện tại cháu vẫn là sinh viên ạ. Cảm ơn bác sĩ ạ</p><p></p><p><span style="font-size: 12px"><strong>Bác sĩ Đỗ Hữu Thảnh</strong></span></p><p></p><p></p><p>Chào bạn.</p><p></p><p>Chụp CT lồng ngực nhằm phát hiện các khối u bất thường trong lồng ngực. Bạn bị bệnh đau ngực đã 3 năm nay, các triệu chứng không thay đổi nặng dần lên thì có lẽ cũng chưa cần chụp cắt lớp vì nếu bị u hoặc ung thư ở phổi thì mức độ bệnh sẽ tiến triển và có thêm nhiều triệu chứng khác nữa.</p><p></p><p>Bạn bị đau ngực, nhưng vận động và ấn vào vùng đau không thấy đau, hoặc không định khu được một vị trí đau cụ thể, thường là nguyên nhân đau dây thần kinh hoặc đám rối thần kinh phế vị. Bạn nên chuyển hướng sang khám chuyên khoa nội thần kinh, hoặc điều trị thuốc đông y.</p><p></p><p>Chúc bạn mạnh khỏe.</p><p></p><p><span style="font-size: 12px"><strong>Bác sĩ Đỗ Hữu Thảnh</strong></span></p><p></p><p></p><p>Bạn nên đi khám khoa nội thần kinh bệnh viện Bạch Mai, hoặc cơ sở tương đương ở thành phố Hồ Chí Minh như bệnh viện Chợ Rẫy, bệnh viện Đại học Y</p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>Sau điều trị bệnh tràn dịch màng phổi, khi trời nắng là đau mắt, chữa thế nào?</strong></span></p><p></p><p></p><p>Câu hỏi bởi: Hà Lê</p><p></p><p>Chào bác sĩ.</p><p></p><p>Cháu bị bệnh tràn dịch màng phổi, từ khi chữa trị đến nay đã được 3 tháng. Sau khi chữa trị xong, mỗi khi có trời nắng là cháu bị đau mắt. Bác cho cháu biết lí do và cách chữa trị thế nào ạ!</p><p></p><p>Cháu cảm ơn!</p><p></p><p><span style="font-size: 12px"><strong>Bác sĩ Đỗ Hữu Thảnh</strong></span></p><p></p><p></p><p>Chào bạn.</p><p></p><p>Bệnh tràn dịch màng phổi và đau mắt không thấy mối liên quan trực tiếp theo cơ chế bệnh sinh với nhau. Bạn không nói rõ đau mắt là như thế nào, đau mắt đỏ, hay nhức đau trong mắt,… nên không thể giải đáp được. </p><p></p><p>Chúc bạn khỏe!</p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>Đau rát vùng ngực, bắp tay sau mổ tràn khí màng phổi phải là bị gì?</strong></span></p><p></p><p></p><p>Câu hỏi bởi: Giấu tên</p><p></p><p>Chào bác sĩ! </p><p></p><p>Em mổ chữa trị tràn khí màng phổi phải cách đây một tháng. Em mổ nội soi, đến nay các vết mổ đã lành, chỉ còn hơi đau khi dùng tay ấn vào. Nhưng em thấy đau rát vùng ngực phải từ sau khi mổ vài ngày đến nay. Đau rát còn xuất hiện ở bắp tay bên phải và nách phải. Đau rát có giảm dần nhưng đến nay vẫn chưa hết. Bác sĩ cho em hỏi đó là biểu hiện của bệnh gì?</p><p></p><p>Cảm ơn bác sĩ!</p><p></p><p><span style="font-size: 12px"><strong>Bác sĩ Nguyễn Kiên Cường</strong></span></p><p></p><p></p><p>Chào bạn! </p><p></p><p>Bạn không nói rõ lí do gây tràn dịch màng phổi phải mà bạn phải mổ nên cũng khó tiên lượng bệnh. Dấu hiệu như bạn mô tả là biểu hiện tăng cảm giác thần kinh. Sự tổn thương dây thần kinh cảm giác này có thể do phẫu thuật hoặc do chấn thương gây tràn khí màng phổi. Dấu hiệu này sẽ mất dần và hết hẳn sau một thời gian nữa, thời gian hết phụ thuộc vào mức độ tổn thương dây thần kinh cảm giác.</p><p></p><p>Chúc bạn mạnh khỏe!</p><p></p><p></p><p style="text-align: right">Theo ViCare</p><p>[/QUOTE]</p>
[QUOTE="Hỏi Đáp Bác Sỹ, post: 39647, member: 11284"] Đau ngực đột ngột, khó thở, tức ngực, da xanh tím do thiếu oxy, nhịp tim nhanh, mạch yếu, giảm tỉnh táo, giảm ý thức là triệu chứng của tràn khí màng phổi áp lực. Do căn bệnh này có phác đồ điều trị khá phức tạp, người bệnh cần có sự trợ giúp từ nhân viên y tế. [SIZE=5][B]Nguyên nhân, tác hại và cách điều trị bệnh tràn khí phổi?[/B][/SIZE] Câu hỏi bởi: Giấu tên Chào bác sĩ. Bác sĩ có thể nói lí do và tác hại, cách chữa trị bệnh tràn khí phổi không ạ? Cảm ơn bác sĩ! [SIZE=3][B]Bác sĩ Đỗ Hữu Thảnh[/B][/SIZE] Chào bạn. Tràn khí màng phổi là tình trạng khí lọt vào giữa 2 lá màng phổi làm xẹp phổi. Câu hỏi của bạn mang tính chất bao quát cả một vấn đề, không rõ là bạn muốn giải đáp ở mức độ nào? (mang tính chất phổ cập giới thiệu, tài liệu tham khảo, hay là giáo trình, sách y học…). Trong khuôn khổ của một chương trình giải đáp sức khỏe thì việc giải đáp chỉ mang tính phổ cập, nếu bạn muốn ở mức độ cao hơn thì phải tìm hiểu ở các tài liệu khác. Nguyên nhân tràn khí màng phổi là do vết thương xuyên thành ngực, thủng hoặc vỡ phế nang, vỡ bóng khí, vỡ áp xe phổi, thông giữa hang lao và màng phổi,… Khoảng 20% tràn khí màng phổi là biến chứng của các bệnh nhiễm trùng phổi. Khoảng 40% tràn khí màng phổi do lao và 40% không rõ lí do. Tác hại của tràn khí màng phổi: Bình thường áp lực trong khoang màng phổi là âm (-3 đến – 5 cm H20), khi không khí lọt vào màng phổi thì sẽ làm nhu mô phổi co lại, lồng ngực dãn ra nên dung tích sống, dung tích toàn phần và dung tích cặn giảm. Mức độ rối loạn chức năng hô hấp do tràn khí màng phổi phụ thuộc vào mức độ tràn khí (xẹp phổi) và chức năng của phổi trước khi bị tràn khí. Có thể có tràn máu màng phổi sau tràn khí do thương tổn dây chằng giữa 2 màng phổi. Thông thường thì không khí lọt vào màng phổi khi thở vào và thoát ra khi thở ra, nếu thở ra mà khí không thoát ra được là tràn khí có van do đó gây nên khó thở tăng dần và đưa đến suy hô hấp trầm trọng, đẩy lệch trung thất. Nếu lỗ rò của màng phổi được bít lại thì tràn khí sẽ tiêu dần. Tràn khí màng phổi có thể có biến chứng: tràn máu, dịch màng phổi sau tràn khí, nhiễm trùng mủ màng phổi qua không khí vào màng phổi, suy tim phải cấp, suy hô hấp cấp. Cách điều trị như sau – Điều trị hỗ trợ: Nghỉ ngơi tại giường, nằm tư thế fowler. Tránh lo âu, xúc động, sử dụng thuốc an thần như Seduxen hay Diazépam, Valium … Không làm việc gắng sức sau cơn cấp. Giảm đau, giảm ho, thở ôxy, dùng thuốc kháng sinh… – Xử lý tràn khí: Mục đích là làm cho mô phổi dẫn ra, tránh suy hô hấp cấp vì xẹp phổi. Phương pháp chủ yếu là hút khí màng phổi bằng bơm tiêm, vị trí thường chọn là gian sườn II trên đường trung đòn. Tùy theo loại tràn khí mà có chỉ định khác nhau. Tràn khí màng phổi đóng: Thông thường thì khí tự hấp thụ trở lại sau một thời gian, nếu 3-4 ngày sau mà lượng không giảm khí thì có thể dùng bơm tiêm lớn và kim để hút, không nên hút mạnh, và chỉ hút từ từ, lượng ít để tránh gây shock do thay đổi vị trí các tạng hoặc giảm áp đột ngột. Đối với tràn khí màng phổi mở, phải dẫn lưu màng phổi bằng catheter với áp lực âm, đưa vào liên sườn II đường trung đòn hay liên sườn 4-5 ở đường nách trước, đưa ống thông về phía định phổi, hoặc dùng máy hút (-20 đến 40 cm H20). Sau 3-5 ngày thì kẹp ống thông lại: 24-48 giờ để xem tràn khí có trở lại hay không. Với tràn khí màng phổi có van, đây là một cấp cứu nội khoa nên phải tiến hành nhanh. Nếu không thấy điều kiện thì dùng kim lớn chọc vào màng phổi ở vị trí đã nêu nối với dây chuyền Serum đưa vào một hình chứa Nacl 9‰, nhưng câu dây chuyền xuống 10-15 cm. Nếu có điều kiện dùng kim chọc hút qua máy liên tục, áp lực hút -15 cm H2O. Chúc bạn mạnh khỏe! [SIZE=5][B]đau ngực[/B][/SIZE] Câu hỏi bởi: vũ thị nhung Cháu bác sĩ ,cháu ở Xã nguyệt đức -Thuận thành -tỉnh Bắc ninh ak Thưa bác sĩ ,chồng cháu năm nay 28 tuổi ,chồng cháu rất hay bị đau ngực nhất là bên trái ,đau nhiều và khó chịu ak ,nhất là những khi bê vật gì nặng hay đội vật gì trên đầu ,Bác sĩ cho cháu hỏi như vậy là ck cháu bị sao ak ? và nếu đi khám thì phải khám những gì để biết ak ? [SIZE=3][B]Bác sĩ Đỗ Hữu Thảnh[/B][/SIZE] Chào bạn. Những biểu hiện như bạn mô tả ở chồng bạn là triệu chứng: Cơn đau thắt ngực Cơn đau và các triệu chứng kèm theo thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau; hầu hết mô tả đau như thắt lại, nghẹt, rát, bị đè nặng trước ngực và đôi khi cảm giác buốt giá. Một số bệnh nhân có khó thở, mệt lả, đau đầu, buồn nôn, vã mồ hôi. Cơn đau thắt ngực thể hiện tình trạng cơ tim bị thiếu máu, chủ yếu là do suy động mạch vành (tức là động mạch vành cung cấp máu cho tim không đủ theo nhu cầu) Cơn đau thắt ngực được phân làm 2 loại: đau thắt ngực ổn định và đau thắt ngực không ổn định. – Đau thắt ngực ổn định là tình trạng không có những diễn biến nặng của cơn đau thắt ngực trong vòng vài tuần gần đây. Với đau thắt ngực ổn định thì tình trạng lâm sàng thường ổn định, cơn đau thắt ngực ngắn, xảy ra khi gắng sức, đỡ khi nghỉ và đáp ứng tốt với Nitrates. Đau thắt ngực ổn định thường liên quan đến sự ổn định của mảng xơ vữa. – Đau thắt ngực không ổn định là tình trạng bất ổn về lâm sàng, cơn đau thắt ngực xuất hiện nhiều và dài hơn, xảy ra cả khi bệnh nhân nghỉ ngơi và cơn đau ít đáp ứng với các Nitrates. Cơn đau này thường liên quan đến tình trạng bất ổn của mảng xơ vữa động mạch vành. Như vậy là bạn phải đưa chồng đi khám ở chuyên khoa tim mạch của các bệnh viện lớn, đủ sức phân định và điều trị bệnh. Xét nghiệm cơ bản nhất cần phải làm là: – Điện tâm đồ lúc nghỉ. Đây là một thăm dò sàng lọc trong bệnh mạch vành. Điện tâm đồ còn giúp phát hiện các tổn thương khác như phì đại thất trái, bloc nhánh, hội chứng tiền kích thích… – Điện tâm đồ trong cơn đau: có thể thấy sự thay đổi sóng T và đoạn ST (ST chênh xuống, sóng T âm). Tuy nhiên nếu Điện tâm đồ bình thường cũng không thể loại trừ được chẩn đoán có bệnh tim thiếu máu cục bộ Chúc bạn mạnh khỏe [SIZE=3][B]Bác sĩ Đỗ Hữu Thảnh[/B][/SIZE] Chào bạn. Những biểu hiện như bạn mô tả ở chồng bạn là triệu chứng: Cơn đau thắt ngực Cơn đau và các triệu chứng kèm theo thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau; hầu hết mô tả đau như thắt lại, nghẹt, rát, bị đè nặng trước ngực và đôi khi cảm giác buốt giá. Một số bệnh nhân có khó thở, mệt lả, đau đầu, buồn nôn, vã mồ hôi. Cơn đau thắt ngực thể hiện tình trạng cơ tim bị thiếu máu, chủ yếu là do suy động mạch vành (tức là động mạch vành cung cấp máu cho tim không đủ theo nhu cầu) Cơn đau thắt ngực được phân làm 2 loại: đau thắt ngực ổn định và đau thắt ngực không ổn định. Đau thắt ngực ổn định là tình trạng không có những diễn biến nặng của cơn đau thắt ngực trong vòng vài tuần gần đây. Với đau thắt ngực ổn định thì tình trạng lâm sàng thường ổn định, cơn đau thắt ngực ngắn, xảy ra khi gắng sức, đỡ khi nghỉ và đáp ứng tốt với Nitrates. Đau thắt ngực ổn định thường liên quan đến sự ổn định của mảng xơ vữa. Đau thắt ngực không ổn định là tình trạng bất ổn về lâm sàng, cơn đau thắt ngực xuất hiện nhiều và dài hơn, xảy ra cả khi bệnh nhân nghỉ ngơi và cơn đau ít đáp ứng với các Nitrates. Cơn đau này thường liên quan đến tình trạng bất ổn của mảng xơ vữa động mạch vành. Như vậy là bạn phải đưa chồng đi khám ở chuyên khoa tim mạch của các bệnh viện lớn, đủ sức phân định và điều trị bệnh. Xét nghiệm cơ bản nhất cần phải làm là: Điện tâm đồ lúc nghỉ Đây là một thăm dò sàng lọc trong bệnh mạch vành. Điện tâm đồ còn giúp phát hiện các tổn thương khác như phì đại thất trái, bloc nhánh, hội chứng tiền kích thích… Điện tâm đồ trong cơn đau có thể thấy sự thay đổi sóng T và đoạn ST (ST chênh xuống, sóng T âm). Tuy nhiên nếu Điện tâm đồ bình thường cũng không thể loại trừ được chẩn đoán có bệnh tim thiếu máu cục bộ Chúc bạn mạnh khỏe [SIZE=5][B]Đau ngực kéo dài[/B][/SIZE] Câu hỏi bởi: Giấu tên Thưa bác sĩ. Cháu năm nay 24 tuổi bị đau ngực kéo dài 3 năm nay. Đau 2424 trừ lúc ngủ không biết. Bác sĩ đã thử nhấn tay quanh vùng đau nhưng không đau chỉ đau bên trong. Và bị triệu chứng khó thở. Có nhiều đờm. Đi khám rất nhiều bệnh viện: thử máu, siêu âm tim, ổ bụng, nước tiểu x quang… nhưng tất cả đều kết luận là không bị sao, chỉ bị viêm phế quản nhẹ, mà uống thuốc vẫn ko hề đỡ, vậy bác sĩ tư vấn giúp em. Cháu có nên chụp CT không ạ. Và nếu chụp thì chụp ở đâu. Giá thành cũng là vấn đề vì hiện tại cháu vẫn là sinh viên ạ. Cảm ơn bác sĩ ạ [SIZE=3][B]Bác sĩ Đỗ Hữu Thảnh[/B][/SIZE] Chào bạn. Chụp CT lồng ngực nhằm phát hiện các khối u bất thường trong lồng ngực. Bạn bị bệnh đau ngực đã 3 năm nay, các triệu chứng không thay đổi nặng dần lên thì có lẽ cũng chưa cần chụp cắt lớp vì nếu bị u hoặc ung thư ở phổi thì mức độ bệnh sẽ tiến triển và có thêm nhiều triệu chứng khác nữa. Bạn bị đau ngực, nhưng vận động và ấn vào vùng đau không thấy đau, hoặc không định khu được một vị trí đau cụ thể, thường là nguyên nhân đau dây thần kinh hoặc đám rối thần kinh phế vị. Bạn nên chuyển hướng sang khám chuyên khoa nội thần kinh, hoặc điều trị thuốc đông y. Chúc bạn mạnh khỏe. [SIZE=3][B]Bác sĩ Đỗ Hữu Thảnh[/B][/SIZE] Bạn nên đi khám khoa nội thần kinh bệnh viện Bạch Mai, hoặc cơ sở tương đương ở thành phố Hồ Chí Minh như bệnh viện Chợ Rẫy, bệnh viện Đại học Y [SIZE=5][B]Sau điều trị bệnh tràn dịch màng phổi, khi trời nắng là đau mắt, chữa thế nào?[/B][/SIZE] Câu hỏi bởi: Hà Lê Chào bác sĩ. Cháu bị bệnh tràn dịch màng phổi, từ khi chữa trị đến nay đã được 3 tháng. Sau khi chữa trị xong, mỗi khi có trời nắng là cháu bị đau mắt. Bác cho cháu biết lí do và cách chữa trị thế nào ạ! Cháu cảm ơn! [SIZE=3][B]Bác sĩ Đỗ Hữu Thảnh[/B][/SIZE] Chào bạn. Bệnh tràn dịch màng phổi và đau mắt không thấy mối liên quan trực tiếp theo cơ chế bệnh sinh với nhau. Bạn không nói rõ đau mắt là như thế nào, đau mắt đỏ, hay nhức đau trong mắt,… nên không thể giải đáp được. Chúc bạn khỏe! [SIZE=5][B]Đau rát vùng ngực, bắp tay sau mổ tràn khí màng phổi phải là bị gì?[/B][/SIZE] Câu hỏi bởi: Giấu tên Chào bác sĩ! Em mổ chữa trị tràn khí màng phổi phải cách đây một tháng. Em mổ nội soi, đến nay các vết mổ đã lành, chỉ còn hơi đau khi dùng tay ấn vào. Nhưng em thấy đau rát vùng ngực phải từ sau khi mổ vài ngày đến nay. Đau rát còn xuất hiện ở bắp tay bên phải và nách phải. Đau rát có giảm dần nhưng đến nay vẫn chưa hết. Bác sĩ cho em hỏi đó là biểu hiện của bệnh gì? Cảm ơn bác sĩ! [SIZE=3][B]Bác sĩ Nguyễn Kiên Cường[/B][/SIZE] Chào bạn! Bạn không nói rõ lí do gây tràn dịch màng phổi phải mà bạn phải mổ nên cũng khó tiên lượng bệnh. Dấu hiệu như bạn mô tả là biểu hiện tăng cảm giác thần kinh. Sự tổn thương dây thần kinh cảm giác này có thể do phẫu thuật hoặc do chấn thương gây tràn khí màng phổi. Dấu hiệu này sẽ mất dần và hết hẳn sau một thời gian nữa, thời gian hết phụ thuộc vào mức độ tổn thương dây thần kinh cảm giác. Chúc bạn mạnh khỏe! [RIGHT]Theo ViCare[/RIGHT] [/QUOTE]
Xem thử
Tên
Mã xác nhận
Trả lời
Trang chủ
Tư Vấn
BÁC SỸ TRỰC TUYẾN TƯ VẤN
HỎI BÁC SỸ
Tràn khí màng phổi áp lực và những triệu chứng
Top
Dưới