Menu
Trang chủ
Tư Vấn
Bài viết mới
Tìm chủ đề
Mới!
Bài viết mới
Tài liệu mới
Trạng thái mới
Hoạt động mới nhất
Tài liệu
Latest reviews
Tìm Tài liệu
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Trạng thái mới
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Chat
0
Tư Vấn
Đăng nhập
Đăng ký
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Bài viết mới
Tìm chủ đề
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Menu
Trả lời chủ đề
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
Trang chủ
Tư Vấn
BÁC SỸ TRỰC TUYẾN TƯ VẤN
HỎI BÁC SỸ
Mắc bệnh động mạch vành: Nguyên nhân do đâu?
Nội dung
<p>[QUOTE="Hỏi Đáp Bác Sỹ, post: 40099, member: 11284"]</p><p>Bệnh động mạch vành được cho là bắt đầu với những thiệt hại hoặc tổn thương bên trong lớp nội mạc của động mạch vành. Vậy tổn thương đó được gây ra bởi những yếu tố nào?</p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>Các triệu chứng của nhồi máu cơ tim, cách sơ cứu và điều trị</strong></span></p><p></p><p></p><p>Câu hỏi bởi: linhvtt</p><p></p><p>Chào bác sĩ!</p><p></p><p>Xin hỏi bác sĩ: Các triệu chứng của nhồi máu cơ tim? Cách sơ cứu và điều trị?</p><p></p><p>Cám ơn bác sĩ!</p><p></p><p><span style="font-size: 12px"><strong>Bác sĩ Vũ Thị Tuyết Mai</strong></span></p><p></p><p></p><p>Chào bạn!</p><p></p><p>Thường một nửa số tình huống nhồi máu cơ tim xảy ra bất ngờ trên một người từ trước đến nay vẫn bình thường. Còn một nửa xảy ra trên những người đã có nhồi máu cơ tim cũ hoặc có những cơn đau thắt ngực.</p><p></p><p>1. Cơn đau ngực: Về tính chất của cơn đau, vị trí đau, hướng lan,… Những cơn đau ngực trong nhồi máu cơ tim khác với cơn đau thắt ngực thông thường. Người bệnh thường lo lắng, hoảng hốt. Cường độ cơn đau khác hẳn, cơn đau thường ngắn, ngậm thuốc Nitroglycerin chỉ giảm không đáng kể. Các cơn đau thường liên tiếp, đau như chẹn lấy ngực, như có người chẹn ngang ở cổ không thể nào thở được, đau vã mồ hôi, có khi phải kêu to. Có người thấy đau tại một điểm vùng ngực trái, có người thấy đau sau xương ức, không ít người nhận biết được đau chỉ ở vùng trước tim, nhưng lại có người mô tả đau toàn bộ vùng ngực cả trái lẫn phải. Tuy nhiên gần như thống nhất là đau dữ dội đến nỗi có cảm giác sắp chết đến nơi nếu không được vào viện.</p><p></p><p>Chúng tôi gặp khá nhiều tình huống nhồi máu cơ tim nhưng không đau ngực mà đau vùng thượng vị khiến tưởng nhầm thủng dạ dày, lại có bệnh nhân đau khu trú ở vùng hố chậu phải. Người ta hay thấy đau thượng vị ở những người bị nhồi máu cơ tim thành dưới. Chúng tôi đã có tình huống chẩn đoán viêm ruột thừa chuẩn bị mổ, nhưng trước khi mổ cho làm điện tim; trên điện tim lại thấy hình ảnh nhồi máu cơ tim, và chữa trị nhồi máu cơ tim ổn định thì hết đau hố chậu phải.</p><p></p><p>Vì thế trong sách y học người ta hay nói đến “hội chứng bụng” trong nhồi máu cơ tim. Hướng lan của đau cũng đặc biệt. Trong tình huống điển hình đau thường lan lên bả vai trái, cánh tay, cẳng tay và các ngón của bàn tay, trái nhất là ngón út. Có khi đau gây mỏi cổ, cứng hàm, tê mặt,… đây là những nét rất riêng về hướng lan dựa vào đó người ta có thể phân biệt được các cơn đau ngực do viêm dây thần kinh liên sườn, đau thành ngực, đau do dày dính màng phổi cũ do hội chứng vùi lấp, do viêm sụn sườn,…</p><p></p><p>Như vậy đau ngực không chỉ đơn thuần do nhồi máu cơ tim. Khác cơn đau thắt ngực thông thường, trong nhồi máu cơ tim cơn đau kéo dài, quá 15-30 phút. Ngừng gắng sức và uống thuốc Nitroglycerin ít tác dụng, nếu có tác dụng thì chỉ trong thời gian rất ngắn. Tóm lại cơn đau ngực trong nhồi máu cơ tim khác hẳn cơn đau thắt ngực thông thường ở mấy tính chất sau:</p><p></p><p>Cường độ đau lớn hơn.</p><p></p><p>Thời gian đau kéo dài hơn.</p><p></p><p>Ngừng gắng sức và uống thuốc giãn mạch (nhóm nitrat) không có tác dụng cắt cơn đau. Thậm chí có những bệnh nhân ngay cả Dolargan, Morphin cũng không cắt được cơn đau.</p><p></p><p>Theo giáo sư Vũ Ðình Hải, chỉ có 1/3 số tình huống nhồi máu cơ tim đau xuất hiện có liên quan đến gắng sức. Cũng có tới 15%-20% tình huống nhồi máu cơ tim mà không có cơn đau ngực. Hay thấy có ở những tình huống sau đây:</p><p></p><p>Bệnh nhân cao tuổi.</p><p></p><p>Vốn đã có bệnh đái tháo đường.</p><p></p><p>Vốn có tăng huyết áp.</p><p></p><p>Bệnh nhân đang trong thời kỳ hậu phẫu. Ở những bệnh nhân không có cơn đau thắt ngực, chẩn đoán chủ yếu dựa vào biến đổi điện tâm đồ và tăng cao một số men tim.</p><p></p><p>2. Biến đổi điện tâm đồ: Ðiện tâm đồ là biểu đồ ghi sự biến đổi dòng điện sinh học của các tế bào cơ tim. Chẩn đoán nhồi máu cơ tim chủ yếu dựa vào sự biến đổi của sóng Q, đoạn ST, sóng T và sóng R. Như vậy ta hiểu được rằng nhồi máu cơ tim là tên gọi của vùng tim đã bị hoại tử do thiếu oxy nuôi dưỡng. Quá trình này được mô tả theo trình tự ban đầu là thiếu máu nuôi dưỡng cơ tim, tình trạng này không được chữa sẽ dẫn đến tổn thương vùng cơ tim thiếu máu đó và sau cùng vùng cơ tim này bị hoại tử, tạo nên vùng cơ tim bị nhồi máu.</p><p></p><p>Vì vậy đánh giá mức độ nặng nhẹ của nhồi máu cơ tim bên cạnh vị trí nhồi máu người ta rất chú ý đến bề rộng của vùng cơ tim bị hoại tử. Vẫn biết rằng quan sát biến đổi trên điện tâm đồ là công việc của người thầy thuốc, song chúng tôi cũng nói đến một cách sơ bộ để độc giả hiểu được như thế nào là hình ảnh điện tim của nhồi máu cơ tim. Tổn thương cơ tim trong nhồi máu cơ tim</p><p></p><p>Thiếu máu cục bộ.</p><p></p><p>Tổn thương.</p><p></p><p>Hoại tử.</p><p></p><p>Ðiện tim thay đổi theo từng giai đoạn trong nhồi máu cơ tim thành trước và thành dưới. Trong sự biến đổi của điện tim thì sự biến đổi của đoạn ST, sóng T, sóng Q là có nghĩa hơn cả bởi chúng là tấm gương phản ánh quá trình tổn thương và hoại tử cơ tim.</p><p></p><p>Biến đổi của sóng T: Ðến sớm nhất là 1 sóng T khổng lồ, nếu có điện tâm đồ cũ đễ nhận biết bởi sự so sánh giữa điện tâm đồ đó với điện tâm đồ mới. Tiếp đến là sóng T thấp dần, rồi đến sóng T âm (gọi là sóng T vành). Sóng T âm sâu dần đến một mức độ nào đó, sóng T lại bớt sâu để rồi có T dẹt và sau cùng một số tình huống sóng T lại dương lại.</p><p></p><p>Biến đổi của đoạn ST: Ðoạn ST chênh lên dần dần, đây là dấu hiệu nhạy, có sớm. Ðoạn ST chênh lên bằng hoặc hơn 2 mm và có ít nhất 2/12 đạo trình mới có ý nghĩa. Ðoạn ST chênh lên kết hợp với sóng T khổng lồ phía sau tạo thành một sóng có hình “vòm” gọi là sóng Pardee. Sau khi chênh lên đến tối đa, đoạn ST sẽ hạ dần dần để rồi trở về đường thẳng điện. Ðoạn ST chênh kéo dài hay gặp trong những tình huống phình vách tâm thất.</p><p></p><p>Biến đổi của sóng Q: Sóng Q còn có tên gọi là sóng hoại tử, nó đặc trưng cho hoại tử cơ tim. Sóng Q thường có muộn hơn biến đổi ST. Hay thấy xuất hiện ở giờ thứ 4 đến giờ thứ 6 sau khi nhồi máu cơ tim xuất hiện. Về tiêu chuẩn sóng Q bệnh lý, người ta thường nói đến một sóng Q rộng hơn 0,04 giây và sâu bằng hoặc sâu hơn 3 mm. Dựa vào sóng Q người ta biết được bề rộng của vùng hoại tử cơ tim. Sóng Q sẽ tồn tại mãi, đây là dấu hiệu của vùng cơ tim hoại tử.</p><p></p><p>3. Biến đổi men tim: Có 3 loại men tim được chú ý nhiều nhất, sự tăng lên của các men này giúp cho việc chẩn đoán sớm nhồi máu cơ tim, đó là Transaminase, CPK, LDH. Ở Việt Nam chủ yếu là men Transaminase (với SGOT) vì dễ làm hơn cả.</p><p></p><p>Transaminase (SGOT còn gọi là ASAT): Tăng dần từ giờ thứ 4 của bệnh, từ giờ thứ 12 đến giờ thứ 24, có thể cao gấp 5-10 lần bình thường (SGOT bình thường từ 6-17 đơn vị/l), tăng tối đa ở ngày thứ ba, tăng kéo dài, sau đến 7 ngày men này trở lại bình thường.</p><p></p><p>Creatin phosphakinase (CPK): Tăng ngay ở giờ thứ nhất, giờ thứ hai, thứ ba trong nhồi máu cơ tim, tăng cao nhất ở ngày đầu, sau đó giảm dần đến ngày thứ 4, thứ 5 chúng đã trở lại bình thường (CPK bình thường là 5,5 đơn vị/l). Vì vậy men này rất có ích để chẩn đoán sớm nhồi máu cơ tim, ngay từ mấy giờ đầu tiên.</p><p></p><p>Lactic dehydrogenase (LDH): Từ giờ thứ 16 đến giờ thứ 24 men này bắt đầu tăng, tăng cao nhất ở ngày thứ 6 có thể tăng kéo dài 8 đến 15 ngày. Men này không có giá trị để chẩn đoán sớm nhồi máu cơ tim như men CPK. Diễn biến 3 men chính trong nhồi máu cơ tim cấp. Giới hạn bình thường:</p><p></p><p>CK: Nữ 10-70 UI/l; Nam: 25-90 UI/l</p><p></p><p>LDH: 25-100 UI/l</p><p></p><p>SGOT: 0-35 UI/l</p><p></p><p>X6, X4, X2 tăng gấp 6 lần, 4 lần, 2 lần.</p><p></p><p>Ngoài 3 tiêu chuẩn chính để chẩn đoán nhồi máu cơ tim là đau ngực, biến đổi điện tim, biến đổi men tim, người ta còn thấy có một số biểu hiện khác nữa như:</p><p></p><p>4. Triệu chứng tiêu hóa đồng thời với đau ngực, buồn nôn và nôn là những biểu hiện thường gặp. Bởi vậy đa số bệnh nhân vẫn tự giải thích là mình bị cảm; có người còn xoa dầu nóng, “cạo gió”,… những tình huống nhồi máu cơ tim thành dưới hay thấy đầu bụng, chướng hơi, bí trung tiện, đau thượng vị, có khi lại nấc liên tục. Có những bệnh nhân nhồi máu cơ tim đau vùng thượng vị dữ dội, đau đến mức được chẩn đoán dạ dày bị thủng và phẫu thuật. Mổ không có thủng mà lại thấy nhồi máu cơ tim. Có bệnh nhân nhồi máu cơ tim lại có biểu hiện của viêm ruột thừa. Ðịnh can thiệp bằng phẫu thuật nhưng trước lúc mổ làm điện tâm đồ lại thấy nhồi máu cơ tim. Cũng may mắn là tỷ lệ các tình huống khác thường này không nhiều.</p><p></p><p>5. Tụt huyết áp: Người ta thường hay nói đến sốc tim trong nhồi máu cơ tim với vật vã, kích thích, vã mồ hôi, chân tay lạnh, hốt hoảng, tụt huyết áp. Những bệnh nhân này có tỷ lệ tử vong 85%. Chúng tôi nhận xét thầy rằng hầu hết bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim bao giờ huyết áp cũng hấp hơn (kể cả người có bệnh tăng huyết áp tước khi bị nhồi máu cơ tim). Tình trạng huyết áp thấp thường kéo dài từ 1-3 tháng, có tình huống đến 1 năm. Sau đó huyết áp tăng dần và “trả lại” tăng huyết áp cho người có bệnh tăng huyết áp trước khi bị nhồi máu cơ tim.</p><p></p><p>6. Sốt: Thường gặp ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim giờ thứ 12. Sốt cao 38 độ-39 độ C, số ít bệnh nhân có rét run giống như sốt rét cơn. Tuy nhiên mọi người đều thấy rằng nếu sốt càng cao, thời gian sốt càng kéo dài thì tiên lượng bệnh càng nặng.</p><p></p><p>7. Nghe tim: Thường thấy nhịp tim nhanh đều 100-100 lần/phút, tiếng nhip tim thường mờ, khó nghe. Ở một số tình huống có thể ngay được tiếng ngựa phi, tiếng cọ ngoài màng tim. Tuy nhiên 4 trệu chứng này chỉ là những biểu hiện phụ trợ. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, ba tiêu chuẩn chính để chẩn đoán là cơn đau ngực, biến đổi điện tim và biến đổi men tim. Nhồi máu cơ tim về tiên lượng còn rất nặng nề, theo Pasternal (Mỹ) thì chết 25% trong đó khoảng 13% tử vong ở nhà, và 12% tử vong ở thời kỳ trong bệnh viện, còn đến 5 đến 10% nữa chết trong năm đầu. Không như nhiều bệnh khác, bệnh này về biểu hiện chủ quan chỉ có duy nhất là cơn đau ngực “kiểu vành”. Bệnh xảy ra đột ngột, diễn biến nặng nề. Vì thế ở các nước văn minh, sự ra đời của các ô tô cấp cứu với đầy đủ trang thiết bị như thuốc, oxy, điện tim, máy phá rung,… để có thể xử trí cấp cứu tại nhà, do đó đã góp phần hạ thấp tỉ lệ tử vong của nhồi máu cơ tim một cách đáng kể.</p><p></p><p>Tiếp theo là các Trung tâm Cấp cứu tích cực bệnh động mạch (CCU: Coronary Care Unit) với cách tổ chức là Nội khoa, bán Ngoại khoa. Các trung tâm này cực kỳ có ý nghĩa trong việc chữa trị nhồi máu cơ tim cấp tính ở thời kỳ sớm. Thí dụ nếu một bệnh nhân có đau ngực chữa trị bằng thuốc giãn mạch không cắt cơn được, người ta chụp động mạch vành phát hiện chỗ tắc sau đó xét thủ thuật nong động mạch vành. Nếu nong không kết quả từ khu vực bán Ngoại khoa ấy người bệnh được chuyển đến khu Ngoại khoa phẫu thuật tạo vòng nối (Bypass). Khi nào cơn nhồi máu có tim có thể xuất hiện?</p><p></p><p>Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu lí do gây ra nhồi máu cơ tim là do tình trạng thiếu máu cục bộ cơ tim. Thiếu máu cục bộ cơ tim do nhiều lí do nhưng có lí do chính là mảng xơ vữa và cục máu đông. Khi mỡ lắng xuống xung quanh thành mạch chúng tạo ra những mảng xơ vữa, theo thời gian khối mỡ này dày lên, làm cho lòng mạch hẹp lại gây cản trở dòng máu lưu thông. Kết hợp với cục máu đông sẽ dẫn đến tắc hoàn toàn mạch vành và nhồi máu cơ tim xảy ra. Nhồi máu cơ tim là căn bệnh có thể xảy ra bất kỳ lúc nào khi vận động, tập thể dục, trúng phong, nghỉ ngơi…</p><p></p><p>Vì vậy, có những kiến thức cơ bản để xử trí cơn nhồi máu cơ tim là việc vô cùng cần thiết để đảm bảo an toàn tính mạng. Làm gì khi nhồi máu cơ tim xuất hiện?</p><p></p><p>Thứ nhất: Tư thế bệnh nhân: Khi có những dấu hiệu bệnh như cơn đau thắt ngực, khó thở, vã mồ hôi, chóng mặt, lạnh chân tay… cần phải khẩn trương gọi cấp cứu để đưa bệnh nhân đến bệnh viện càng sớm càng tốt. Trong lúc chờ đợi nên dùng ngay Nitroglycerin đặt dưới lưỡi bệnh nhân, giữ bệnh nhân ở trạng thái nửa nằm, nửa ngồi. Khi vận chuyển bệnh nhân phải được tiến hành bằng xe cứu thương chuyên dụng thở oxy, truyền tĩnh mạch, làm điện tim trên xe và có thể bắt đầu chữa trị.</p><p></p><p>Thứ hai: Thực hiện phương pháp ép tim: Trong thời gian chờ đợi xe cứu thương, để nạn nhân nằm trên mặt phẳng cứng, người tiến hành ép tim quỳ gối bên trái nạn nhân. Hai bàn tay chồng lên nhau rồi để trước tim, tương ứng với điểm giữa hai núm vú hoặc khoang liên sườn 4 – 5 bên ngực trái, từ từ ấn sâu xuống khoảng 1/3 cho đến một nửa bề dày lồng ngực, sau đó nới lỏng tay ra. Thao tác này thực hiện 60 lần/phút. Khi ép xuống ngực bệnh nhân sẽ tạo ra một lực cơ học lên tim, tim sẽ có thể co bóp và đưa máu vào trong hệ tuần hoàn, giúp máu lưu thông.</p><p></p><p>Thứ ba: Hô hấp nhân tạo: Đây là phương pháp khá dễ làm nhưng vô cùng quan trọng, giúp đảm bảo oxy cho bệnh nhân, lưu thông máu. Để nạn nhân nằm ở nơi thoáng đãng, nới rộng quần áo và dây thắt lưng, đệm dưới cổ cho đầu hơi ngửa ra sau để đảm bảo đường hô hấp được thông thoáng, lấy dị vật trong miệng nạn nhân nếu có. Đẩy đầu bệnh nhân về phía sau, nâng hai cằm lên cho hai hàm răng gần như chạm nhau đồng thời lắng nghe hơi thở nạn nhân. Sau đó bịt mũi nạn nhân, dùng miệng ngậm kín miệng nạn nhân thở hai hơi liên tiếp vào miệng nạn nhân. Thời gian dành cho chúng ta không nhiều, vì vậy cần phải tiến hành ngay các phương pháp sơ cứu kịp thời. Trước tình trạng mất ý thức do tim hay bất cứ nguyên nhân nào khác, chúng ta chỉ có 3 phút từ lúc tim ngừng đập đến khi xuất hiện những tổn thương não không hồi phục. Vì thế chúng ta phải ngay lập tức hồi sinh tim cho bệnh nhân.</p><p></p><p>Thứ tư: Khi xe cấp cứu đến: Khi các nhân viên y tế đến sẽ tiến hành đặt nội khí quản (ống cắm vào cổ họng bệnh nhân để cung cấp oxy), trong lúc đó chúng ta vẫn phải tiến hành ép tim cho đến khi đến bệnh viện. Nếu bệnh nhân vẫn bị ngừng tim (tim không đập), rung tim (tim bị rung nhẹ) thì không thể bơm máu đi được nữa, khi đó phải tiến hành sốc điện ngoài lồng ngực. Sốc điện giống như một báo động mạnh gọi quả tim tỉnh dậy làm việc của nó. Nguồn điện ở máy sốc điện sẽ giật mạnh các cơ tim, tạo thể hoạt động mồi, tạo một lực giúp tim đập trở lại dễ dàng hơn.</p><p></p><p>Tóm tắt các bước sơ cứu sau khi sốc điện mà tim đập trở lại coi như bệnh nhân cấp cứu thành công. Các phương pháp sơ cứu dù có thực hiện thành công thì tính mạng của bạn cũng luôn bị rình rập bởi nhồi máu cơ tim là căn bệnh khả năng tái phát rất cao. Vì vậy, thực hiện chế độ ăn uống, sinh hoạt điều độ kết hợp với sử dụng các thực phẩm bổ sung là cách tốt nhất để phòng ngừa nhồi máu cơ tim.</p><p></p><p>Thân mến!</p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>Đau đầu, tức ngực, buồn nôn, choáng váng có phải bị u não?</strong></span></p><p></p><p></p><p>Câu hỏi bởi: Thảo ngọc</p><p></p><p>Chào bác sĩ.</p><p></p><p>Cháu năm nay 16 tuổi. Cháu hay bị đau 2 bên thái dương có lúc ở đỉnh đầu. Những lúc đau đầu cháu có cảm giác tức ngực như bị đau tim vậy. Đau nhói liên tục ban ngày không bị nhưng ban đêm bị cháu hay bị vậy. Cháu đôi lúc còn buồn nôn, choáng váng thấy mờ mắt. Cháu cũng hay bị mỏi tay chân nữa. Thưa bác sĩ, cháu có bị u não không ạ? Mong bác trả cho cháu.</p><p></p><p>Cháu cảm ơn bác sĩ!</p><p></p><p><span style="font-size: 12px"><strong>Bác sĩ Chu Văn Điểu</strong></span></p><p></p><p></p><p>Chào cháu!</p><p></p><p>Qua lời kể của cháu bác thấy cháu có một số biểu hiện sau đây:</p><p></p><p>Đau hai bên thái dương, có lúc đau ở đỉnh đầu</p><p></p><p>Buồn nôn</p><p></p><p>Choáng váng</p><p></p><p>Mờ mắt</p><p></p><p>Tức ngực, đau nhói ở ngực vào ban đêm</p><p></p><p>Cháu không nói rõ là cháu đau đầu liên tục hay từng cơn và nếu từng cơn thì mỗi cơn kéo dài mấy tiếng. Theo mô tả của cháu thì bác nghĩ là cháu đau đầu do lí do mạch máu, còn gọi là hội chứng thần kinh – mạch máu ở não. Do có sự co giãn bất thường của mạch máu não sinh ra các cơn đau đầu. Cơn đau đầu thường thấy rõ đau ở vùng thái dương, các mạch máu nổi căng và đau giật giật theo nhịp đập của mạch máu làm người bệnh rất khó chịu. Mức độ đau vừa hoặc dữ dội tuỳ theo từng bệnh nhân và đau tăng lên khi gắng sức. Trong cơn có kèm theo biểu hiện buồn nôn hoặc nôn, sợ ánh sáng và tiếng động. Cơn đau đầu kéo dài vài tiếng đến 2-3 ngày. Có bệnh nhân có biểu hiện báo trước khi cơn đau xuất hiện khoảng 30 phút các dấu hiệu rối loạn cảm giác, thị giác và ngôn ngữ, sau đó khoảng 30 phút là cơn đau xuất hiện.</p><p></p><p>Cháu nên tới khoa Thần kinh để khám, chụp phim sọ não để loại trừ đau đầu do lí do thực thể. Chứng đau đầu do chuyên khoa Thần kinh khám và chữa trị. Bác nghĩ cháu bị đau đầu do vận mạch máu não thôi chứ không phải do u não. Đau đầu do vận mạch máu như phần trên bác đã nói cũng đau đầu, nôn, rối loạn cảm giác (choáng váng), rối loạn thị giác (mờ mắt). Cháu hãy đến khoa Thần kinh để khám, chụp sọ não sẽ phân biệt có u não hay không và khám luôn chứng mỏi tay chân của cháu là do đâu nữa, cháu cứ yên tâm. Còn hiện tượng tức và đau nhói liên tục ở ngực của cháu thì thuộc chuyên khoa Tim mạch khám. Nếu đau nhói ở bên ngực trái thì cũng hết sức cẩn thận, vì đó rất có thể là triệu chứng của thiểu năng động mạch vành tim. Cháu nên đi khám ngay cả hai chuyên khoa là Thần kinh và Tim mạch nhé.</p><p></p><p>Chúc cháu mau khỏi bệnh!</p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>Nhức đầu, chóng mặt, tức ngực, khó ngủ là bị bệnh gì?</strong></span></p><p></p><p></p><p>Câu hỏi bởi: Quân</p><p></p><p>Chào bác sĩ!</p><p></p><p>Tôi năm nay 30 tuổi là nam. Tôi hay bị nhức đầu chóng mặt, tức ngực, đau dạ dày, khó thở thường xuất hiện nặng vào lúc chiều tối. Tôi làm việc nặng hay hoạt động quá sức là bị làm mệt nhức đầu chóng mặt. Buổi tối chạy xe thấy người khó chịu mệt người có cảm giác muốn nôn và chóng mặt muốn ngất; tối ngủ có cảm giác tức ở ngực hay dạ dày hay sao làm tôi rất khó ngủ. 1đêm giấc ngủ tôi bị gián đoạn đến 2,3 lần. Tôi đi khám thì được chẩn đoán là rối loạn thần kinh thực vật. Tôi dùng thuốc gần 2 tháng mà không hết. Bác sĩ cho tôi hỏi tôi bị gì và nên làm sao.</p><p></p><p>Cảm ơn bác sĩ</p><p></p><p><span style="font-size: 12px"><strong>Bác sĩ Đinh Văn Tài</strong></span></p><p></p><p></p><p>Chào bạn!</p><p></p><p>Các triệu chứng như bạn mô tả như: nhức đầu, chóng mặt, tức ngực, khó thở, mệt mỏi, mất ngủ,… có thể do rất nhiều lí do gây ra.</p><p></p><p>Trong y học, với các vấn đề về sức khoẻ, thường chia thành rối loạn cơ năng và rối loạn thực thể.</p><p></p><p>Rối loạn thực thể là các rối loạn gồm các tổn thương, bệnh lý xác định được một cách rõ ràng (hẹp động mạch vành, hở van hai lá, sỏi thận, khối u,…), trong khi rối loạn cơ năng thì không xác định được tổn thương, bệnh lý cụ thể (như tăng nhu động ruột, co thắt mạch máu, rối loạn thần kinh thực vật,…).</p><p></p><p>Như vậy, tình huống của bạn trước hết cần khám sàng lọc kỹ xem có tổn thương thực thể gì không, tức là xác định xem cơ thể có bệnh lý gì không. Tuy nhiên, qua mô tả, bạn đã đi khám kiểm tra và được chẩn đoán là rối loạn thần kinh thực vật, và chắc đã được loại trừ các tổn thương thực thể.</p><p></p><p>Rối loạn thần kinh thực vật khá thường gặp, đặc biệt ở người trẻ. Các biện pháp chữa trị thường không đặc hiệu, chủ yếu là chữa trị biểu hiện, an thần và tăng cường sức khoẻ. Do vậy, trước hết, bạn không nên lo lắng quá mức và hạn chế tối đa suy nghĩ căng thẳng, đây là yếu tố ảnh hưởng khá nhiều tới tình trạng rối loạn thần kinh thực vật. Đồng thời, đảm bảo chế độ ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, vitamin và khoáng chất. Sắp xếp hài hoà giữa công việc và nghỉ ngơi. Đặc biệt, bạn nên có kế hoạch tập luyện tăng cường sức khoẻ, tập thở và nên tập các môn khí công, yoga thiền và tĩnh tâm,… điều này sẽ giúp điều hoà lại cơ thể, đẩy lùi tình trạng rối loạn.</p><p></p><p>Chúc bạn vui khoẻ!</p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>Người bệnh block nhĩ thất độ 3 đã cấy máy tạo nhịp thì sức khỏe như thế nào?</strong></span></p><p></p><p></p><p>Câu hỏi bởi: janet believe</p><p></p><p>Thưa bác sĩ!</p><p></p><p>Bạn trai em năm nay 23 tuổi bị bệnh block nhĩ thất độ 3. Năm anh ấy 13 tuổi khi phát hiện bệnh đã được phẫu thuật để cấy máy tạo nhịp tim biotronik GmbH. Đến năm anh ấy 20 tuổi thì có một cuộc tiểu phẫu để cấy máy tạo nhịp tim mới vì máy cũ hết pin. Máy hiện tại có thể sử dụng đến 10 năm. Vì anh ấy cấy máy tạo nhịp nên gia đình em cho rằng sức khỏe anh ấy rất yếu và có thể yếu hơn khi về già. Nếu em kết hôn với anh ấy, với tình hình sức khỏe của anh ấy ba má em nghĩ rằng anh ấy có thể chết sớm hoặc trở thành gánh nặng của em. Em thấy sức khỏe của anh ấy rất tốt có thể chơi thể thao và khuân vác vật nặng. Vì vậy gia đình em đã ngăn cấm chúng em quen nhau. Bác sĩ cho em hỏi với tình trạng bệnh của bạn em như vậy thì cấy máy tạo nhịp thì sức khỏe có như người bình thường không? Những lo lắng của gia đình em là sai phải không ạ? Em phải làm gì để thuyết phục ba má em chấp nhận anh ấy đây?</p><p></p><p>Em cảm ơn bác sĩ!</p><p></p><p><span style="font-size: 12px"><strong>Bác sĩ Nguyễn Thị Hòa</strong></span></p><p></p><p></p><p>Chào bạn!</p><p></p><p>Block nhĩ thất độ 3 hay còn gọi là block nhĩ thất hoàn toàn là bệnh lý của đường dẫn truyền điện học ở trong tim, tại đó những xung động được phát ra từ nút xoang ở tâm nhĩ không dẫn truyền xuống tâm thất được. Các bệnh nhân bị block nhĩ thất độ 3 thường có nhịp tim rất chậm (có thể chỉ khoảng 28 nhịp/phút), huyết áp thấp do vậy lưu lượng tuần hoàn thường không đáp ứng đầy đủ nhu cầu của cơ thể. Trong một số tình huống, bệnh nhân không thể hoạt động thể lực được một cách bình thường.</p><p></p><p>Nếu block gây ra bởi thuốc chống loạn nhịp tim, ngừng thuốc có thể hồi phục nhịp tim bình thường mặc dù nhiều bệnh nhân cần đặt máy tạo nhịp tạm thời trong thời gian chờ thuốc hết tác dụng. Nhiều tình trạng bệnh lý có thể gây ra block nhĩ thất độ III, những lí do hay gặp nhất là do bệnh động mạch vành, sự thoái hoá từ từ của hệ thống dẫn truyền điện học của tim, nhồi máu cơ tim cấp. Bệnh còn có thể do bẩm sinh hay gặp ở những trẻ sinh ra bởi các bà mẹ mắc bệnh lupus. Bệnh được cho là do kháng thể của mẹ đi qua rau thai và tấn công vào mô tim trong quá trình mang thai. Block nhĩ thất độ 3 có thể chữa trị bằng cấy máy tạo nhịp nhân tạo 2 buồng tim. Loại máy tạo nhịp này có thể cảm nhận xung động từ nút xoang và truyền xung động xuống nút nhĩ thất với những khoảng thời gian phù hợp.</p><p></p><p>Việc chữa trị cũng bao gồm sử dụng thuốc kiểm soát huyết áp và rung nhĩ cũng như thay đổi lối sống và chế độ ăn để làm giảm nguy cơ bị nhồi máu cơ tim và đột qụy. Nhiều công trình nghiên cứu về huyết động học cho biết khi bệnh nhân bị block nhĩ thất hoàn toàn được máy tạo nhịp đưa tần số tim lên khoảng 70c/phút thì lưu lượng tim đạt mức tối đa được gọi là “tần số tạo nhịp lý tưởng”. Khi nhịp tim ở tần số lý tưởng, các cơn Adams-Stokes biến đi, khó thở và suy tim cũng giảm nhẹ và nhiều khi mất hẳn, bệnh nhân có thể hoạt động 1 cách bình thường.</p><p></p><p>Tuy nhiên tiên lượng bệnh nhân phụ thuộc vào nhiều yếu tố, cần thăm khám cụ thể và làm một số xét nghiệm thăm dò chức năng tim mới có thể giải đáp cho bạn cụ thể hơn được.</p><p></p><p>Chúc bạn lựa chọn đúng!</p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>Hút thuốc nhiều có ảnh hưởng như thế nào?</strong></span></p><p></p><p></p><p>Câu hỏi bởi: nguyễn kít</p><p></p><p>Em chào bác sĩ!</p><p></p><p>Năm nay em 17 tuổi, em có hút thuốc được 3 năm. Có hôm em hút từ 5 đến 6 điếu, có hôm không. Hiện nay em đang theo học tại thanh nhạc. Liệu hút thuốc như này có ảnh hưởng nhiều đến giọng hát của em không ạ? Có nên cai hẳn không hay giảm bớt thôi? Dạo gần đây, em còn bị đau tức ngực, thi thoảng thì đau 1 lúc, có lúc nó kéo dài trong 5 phút, 1 ngày em bị trung bình khoảng 3 đến 4 lần. Em xem trên mạng thì em thấy người ta nói nhiều bệnh liên quan đến đau ngực, lúc đầu em nghĩ là do em bị tràn dịch thực quản vì em hay ăn đêm, xong có người lại nói với em là nên đi khám vì sợ bị ung thư vòm họng hoặc ung thư phổi. Nhưng em soi trước gương thì không thấy có khối u nào cả. Xin bác sĩ nói rõ cho em về biểu hiện này, em có nên đi khám và thay đổi chế độ ăn uống + bỏ thuốc không?</p><p></p><p>Em cảm ơn bác sĩ rất nhiều!</p><p></p><p><span style="font-size: 12px"><strong>Bác sĩ Nguyễn Kiên Cường</strong></span></p><p></p><p></p><p>Chào em!</p><p></p><p>Em nên bỏ hút thuốc lá vì hút thuốc lá không thấy lợi mà còn có hại cho sức khỏe.</p><p></p><p>Hút thuốc lá thường gây viêm họng, viêm thanh quản do đó hút thuốc lá lâu dài là không tốt với giọng hát của em. Gần đây em có triệu chứng đau ngực, em cần đi khám để tìm hiểu lí do đau ngực là gì, bác sĩ khám có thể sẽ chỉ định làm xét nghiệm như điện tim, chụp phổi, xét nghiệm máu… để đánh giá một cách toàn diện. Lời khuyên là em nên đi khám sớm, không nên chủ quan với triệu chứng đau ngực, nhất là đau ngực trái, cần khám để loại trừ cơn đau thắt ngực do thiểu năng động mạch vành. Khuyên em nên bỏ hắn thuốc lá vì những bất lợi mà nó mang lại cho sức khỏe bản thân và những người xung quanh.</p><p></p><p>Chúc em mạnh khỏe!</p><p></p><p></p><p style="text-align: right">Theo ViCare</p><p>[/QUOTE]</p>
[QUOTE="Hỏi Đáp Bác Sỹ, post: 40099, member: 11284"] Bệnh động mạch vành được cho là bắt đầu với những thiệt hại hoặc tổn thương bên trong lớp nội mạc của động mạch vành. Vậy tổn thương đó được gây ra bởi những yếu tố nào? [SIZE=5][B]Các triệu chứng của nhồi máu cơ tim, cách sơ cứu và điều trị[/B][/SIZE] Câu hỏi bởi: linhvtt Chào bác sĩ! Xin hỏi bác sĩ: Các triệu chứng của nhồi máu cơ tim? Cách sơ cứu và điều trị? Cám ơn bác sĩ! [SIZE=3][B]Bác sĩ Vũ Thị Tuyết Mai[/B][/SIZE] Chào bạn! Thường một nửa số tình huống nhồi máu cơ tim xảy ra bất ngờ trên một người từ trước đến nay vẫn bình thường. Còn một nửa xảy ra trên những người đã có nhồi máu cơ tim cũ hoặc có những cơn đau thắt ngực. 1. Cơn đau ngực: Về tính chất của cơn đau, vị trí đau, hướng lan,… Những cơn đau ngực trong nhồi máu cơ tim khác với cơn đau thắt ngực thông thường. Người bệnh thường lo lắng, hoảng hốt. Cường độ cơn đau khác hẳn, cơn đau thường ngắn, ngậm thuốc Nitroglycerin chỉ giảm không đáng kể. Các cơn đau thường liên tiếp, đau như chẹn lấy ngực, như có người chẹn ngang ở cổ không thể nào thở được, đau vã mồ hôi, có khi phải kêu to. Có người thấy đau tại một điểm vùng ngực trái, có người thấy đau sau xương ức, không ít người nhận biết được đau chỉ ở vùng trước tim, nhưng lại có người mô tả đau toàn bộ vùng ngực cả trái lẫn phải. Tuy nhiên gần như thống nhất là đau dữ dội đến nỗi có cảm giác sắp chết đến nơi nếu không được vào viện. Chúng tôi gặp khá nhiều tình huống nhồi máu cơ tim nhưng không đau ngực mà đau vùng thượng vị khiến tưởng nhầm thủng dạ dày, lại có bệnh nhân đau khu trú ở vùng hố chậu phải. Người ta hay thấy đau thượng vị ở những người bị nhồi máu cơ tim thành dưới. Chúng tôi đã có tình huống chẩn đoán viêm ruột thừa chuẩn bị mổ, nhưng trước khi mổ cho làm điện tim; trên điện tim lại thấy hình ảnh nhồi máu cơ tim, và chữa trị nhồi máu cơ tim ổn định thì hết đau hố chậu phải. Vì thế trong sách y học người ta hay nói đến “hội chứng bụng” trong nhồi máu cơ tim. Hướng lan của đau cũng đặc biệt. Trong tình huống điển hình đau thường lan lên bả vai trái, cánh tay, cẳng tay và các ngón của bàn tay, trái nhất là ngón út. Có khi đau gây mỏi cổ, cứng hàm, tê mặt,… đây là những nét rất riêng về hướng lan dựa vào đó người ta có thể phân biệt được các cơn đau ngực do viêm dây thần kinh liên sườn, đau thành ngực, đau do dày dính màng phổi cũ do hội chứng vùi lấp, do viêm sụn sườn,… Như vậy đau ngực không chỉ đơn thuần do nhồi máu cơ tim. Khác cơn đau thắt ngực thông thường, trong nhồi máu cơ tim cơn đau kéo dài, quá 15-30 phút. Ngừng gắng sức và uống thuốc Nitroglycerin ít tác dụng, nếu có tác dụng thì chỉ trong thời gian rất ngắn. Tóm lại cơn đau ngực trong nhồi máu cơ tim khác hẳn cơn đau thắt ngực thông thường ở mấy tính chất sau: Cường độ đau lớn hơn. Thời gian đau kéo dài hơn. Ngừng gắng sức và uống thuốc giãn mạch (nhóm nitrat) không có tác dụng cắt cơn đau. Thậm chí có những bệnh nhân ngay cả Dolargan, Morphin cũng không cắt được cơn đau. Theo giáo sư Vũ Ðình Hải, chỉ có 1/3 số tình huống nhồi máu cơ tim đau xuất hiện có liên quan đến gắng sức. Cũng có tới 15%-20% tình huống nhồi máu cơ tim mà không có cơn đau ngực. Hay thấy có ở những tình huống sau đây: Bệnh nhân cao tuổi. Vốn đã có bệnh đái tháo đường. Vốn có tăng huyết áp. Bệnh nhân đang trong thời kỳ hậu phẫu. Ở những bệnh nhân không có cơn đau thắt ngực, chẩn đoán chủ yếu dựa vào biến đổi điện tâm đồ và tăng cao một số men tim. 2. Biến đổi điện tâm đồ: Ðiện tâm đồ là biểu đồ ghi sự biến đổi dòng điện sinh học của các tế bào cơ tim. Chẩn đoán nhồi máu cơ tim chủ yếu dựa vào sự biến đổi của sóng Q, đoạn ST, sóng T và sóng R. Như vậy ta hiểu được rằng nhồi máu cơ tim là tên gọi của vùng tim đã bị hoại tử do thiếu oxy nuôi dưỡng. Quá trình này được mô tả theo trình tự ban đầu là thiếu máu nuôi dưỡng cơ tim, tình trạng này không được chữa sẽ dẫn đến tổn thương vùng cơ tim thiếu máu đó và sau cùng vùng cơ tim này bị hoại tử, tạo nên vùng cơ tim bị nhồi máu. Vì vậy đánh giá mức độ nặng nhẹ của nhồi máu cơ tim bên cạnh vị trí nhồi máu người ta rất chú ý đến bề rộng của vùng cơ tim bị hoại tử. Vẫn biết rằng quan sát biến đổi trên điện tâm đồ là công việc của người thầy thuốc, song chúng tôi cũng nói đến một cách sơ bộ để độc giả hiểu được như thế nào là hình ảnh điện tim của nhồi máu cơ tim. Tổn thương cơ tim trong nhồi máu cơ tim Thiếu máu cục bộ. Tổn thương. Hoại tử. Ðiện tim thay đổi theo từng giai đoạn trong nhồi máu cơ tim thành trước và thành dưới. Trong sự biến đổi của điện tim thì sự biến đổi của đoạn ST, sóng T, sóng Q là có nghĩa hơn cả bởi chúng là tấm gương phản ánh quá trình tổn thương và hoại tử cơ tim. Biến đổi của sóng T: Ðến sớm nhất là 1 sóng T khổng lồ, nếu có điện tâm đồ cũ đễ nhận biết bởi sự so sánh giữa điện tâm đồ đó với điện tâm đồ mới. Tiếp đến là sóng T thấp dần, rồi đến sóng T âm (gọi là sóng T vành). Sóng T âm sâu dần đến một mức độ nào đó, sóng T lại bớt sâu để rồi có T dẹt và sau cùng một số tình huống sóng T lại dương lại. Biến đổi của đoạn ST: Ðoạn ST chênh lên dần dần, đây là dấu hiệu nhạy, có sớm. Ðoạn ST chênh lên bằng hoặc hơn 2 mm và có ít nhất 2/12 đạo trình mới có ý nghĩa. Ðoạn ST chênh lên kết hợp với sóng T khổng lồ phía sau tạo thành một sóng có hình “vòm” gọi là sóng Pardee. Sau khi chênh lên đến tối đa, đoạn ST sẽ hạ dần dần để rồi trở về đường thẳng điện. Ðoạn ST chênh kéo dài hay gặp trong những tình huống phình vách tâm thất. Biến đổi của sóng Q: Sóng Q còn có tên gọi là sóng hoại tử, nó đặc trưng cho hoại tử cơ tim. Sóng Q thường có muộn hơn biến đổi ST. Hay thấy xuất hiện ở giờ thứ 4 đến giờ thứ 6 sau khi nhồi máu cơ tim xuất hiện. Về tiêu chuẩn sóng Q bệnh lý, người ta thường nói đến một sóng Q rộng hơn 0,04 giây và sâu bằng hoặc sâu hơn 3 mm. Dựa vào sóng Q người ta biết được bề rộng của vùng hoại tử cơ tim. Sóng Q sẽ tồn tại mãi, đây là dấu hiệu của vùng cơ tim hoại tử. 3. Biến đổi men tim: Có 3 loại men tim được chú ý nhiều nhất, sự tăng lên của các men này giúp cho việc chẩn đoán sớm nhồi máu cơ tim, đó là Transaminase, CPK, LDH. Ở Việt Nam chủ yếu là men Transaminase (với SGOT) vì dễ làm hơn cả. Transaminase (SGOT còn gọi là ASAT): Tăng dần từ giờ thứ 4 của bệnh, từ giờ thứ 12 đến giờ thứ 24, có thể cao gấp 5-10 lần bình thường (SGOT bình thường từ 6-17 đơn vị/l), tăng tối đa ở ngày thứ ba, tăng kéo dài, sau đến 7 ngày men này trở lại bình thường. Creatin phosphakinase (CPK): Tăng ngay ở giờ thứ nhất, giờ thứ hai, thứ ba trong nhồi máu cơ tim, tăng cao nhất ở ngày đầu, sau đó giảm dần đến ngày thứ 4, thứ 5 chúng đã trở lại bình thường (CPK bình thường là 5,5 đơn vị/l). Vì vậy men này rất có ích để chẩn đoán sớm nhồi máu cơ tim, ngay từ mấy giờ đầu tiên. Lactic dehydrogenase (LDH): Từ giờ thứ 16 đến giờ thứ 24 men này bắt đầu tăng, tăng cao nhất ở ngày thứ 6 có thể tăng kéo dài 8 đến 15 ngày. Men này không có giá trị để chẩn đoán sớm nhồi máu cơ tim như men CPK. Diễn biến 3 men chính trong nhồi máu cơ tim cấp. Giới hạn bình thường: CK: Nữ 10-70 UI/l; Nam: 25-90 UI/l LDH: 25-100 UI/l SGOT: 0-35 UI/l X6, X4, X2 tăng gấp 6 lần, 4 lần, 2 lần. Ngoài 3 tiêu chuẩn chính để chẩn đoán nhồi máu cơ tim là đau ngực, biến đổi điện tim, biến đổi men tim, người ta còn thấy có một số biểu hiện khác nữa như: 4. Triệu chứng tiêu hóa đồng thời với đau ngực, buồn nôn và nôn là những biểu hiện thường gặp. Bởi vậy đa số bệnh nhân vẫn tự giải thích là mình bị cảm; có người còn xoa dầu nóng, “cạo gió”,… những tình huống nhồi máu cơ tim thành dưới hay thấy đầu bụng, chướng hơi, bí trung tiện, đau thượng vị, có khi lại nấc liên tục. Có những bệnh nhân nhồi máu cơ tim đau vùng thượng vị dữ dội, đau đến mức được chẩn đoán dạ dày bị thủng và phẫu thuật. Mổ không có thủng mà lại thấy nhồi máu cơ tim. Có bệnh nhân nhồi máu cơ tim lại có biểu hiện của viêm ruột thừa. Ðịnh can thiệp bằng phẫu thuật nhưng trước lúc mổ làm điện tâm đồ lại thấy nhồi máu cơ tim. Cũng may mắn là tỷ lệ các tình huống khác thường này không nhiều. 5. Tụt huyết áp: Người ta thường hay nói đến sốc tim trong nhồi máu cơ tim với vật vã, kích thích, vã mồ hôi, chân tay lạnh, hốt hoảng, tụt huyết áp. Những bệnh nhân này có tỷ lệ tử vong 85%. Chúng tôi nhận xét thầy rằng hầu hết bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim bao giờ huyết áp cũng hấp hơn (kể cả người có bệnh tăng huyết áp tước khi bị nhồi máu cơ tim). Tình trạng huyết áp thấp thường kéo dài từ 1-3 tháng, có tình huống đến 1 năm. Sau đó huyết áp tăng dần và “trả lại” tăng huyết áp cho người có bệnh tăng huyết áp trước khi bị nhồi máu cơ tim. 6. Sốt: Thường gặp ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim giờ thứ 12. Sốt cao 38 độ-39 độ C, số ít bệnh nhân có rét run giống như sốt rét cơn. Tuy nhiên mọi người đều thấy rằng nếu sốt càng cao, thời gian sốt càng kéo dài thì tiên lượng bệnh càng nặng. 7. Nghe tim: Thường thấy nhịp tim nhanh đều 100-100 lần/phút, tiếng nhip tim thường mờ, khó nghe. Ở một số tình huống có thể ngay được tiếng ngựa phi, tiếng cọ ngoài màng tim. Tuy nhiên 4 trệu chứng này chỉ là những biểu hiện phụ trợ. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, ba tiêu chuẩn chính để chẩn đoán là cơn đau ngực, biến đổi điện tim và biến đổi men tim. Nhồi máu cơ tim về tiên lượng còn rất nặng nề, theo Pasternal (Mỹ) thì chết 25% trong đó khoảng 13% tử vong ở nhà, và 12% tử vong ở thời kỳ trong bệnh viện, còn đến 5 đến 10% nữa chết trong năm đầu. Không như nhiều bệnh khác, bệnh này về biểu hiện chủ quan chỉ có duy nhất là cơn đau ngực “kiểu vành”. Bệnh xảy ra đột ngột, diễn biến nặng nề. Vì thế ở các nước văn minh, sự ra đời của các ô tô cấp cứu với đầy đủ trang thiết bị như thuốc, oxy, điện tim, máy phá rung,… để có thể xử trí cấp cứu tại nhà, do đó đã góp phần hạ thấp tỉ lệ tử vong của nhồi máu cơ tim một cách đáng kể. Tiếp theo là các Trung tâm Cấp cứu tích cực bệnh động mạch (CCU: Coronary Care Unit) với cách tổ chức là Nội khoa, bán Ngoại khoa. Các trung tâm này cực kỳ có ý nghĩa trong việc chữa trị nhồi máu cơ tim cấp tính ở thời kỳ sớm. Thí dụ nếu một bệnh nhân có đau ngực chữa trị bằng thuốc giãn mạch không cắt cơn được, người ta chụp động mạch vành phát hiện chỗ tắc sau đó xét thủ thuật nong động mạch vành. Nếu nong không kết quả từ khu vực bán Ngoại khoa ấy người bệnh được chuyển đến khu Ngoại khoa phẫu thuật tạo vòng nối (Bypass). Khi nào cơn nhồi máu có tim có thể xuất hiện? Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu lí do gây ra nhồi máu cơ tim là do tình trạng thiếu máu cục bộ cơ tim. Thiếu máu cục bộ cơ tim do nhiều lí do nhưng có lí do chính là mảng xơ vữa và cục máu đông. Khi mỡ lắng xuống xung quanh thành mạch chúng tạo ra những mảng xơ vữa, theo thời gian khối mỡ này dày lên, làm cho lòng mạch hẹp lại gây cản trở dòng máu lưu thông. Kết hợp với cục máu đông sẽ dẫn đến tắc hoàn toàn mạch vành và nhồi máu cơ tim xảy ra. Nhồi máu cơ tim là căn bệnh có thể xảy ra bất kỳ lúc nào khi vận động, tập thể dục, trúng phong, nghỉ ngơi… Vì vậy, có những kiến thức cơ bản để xử trí cơn nhồi máu cơ tim là việc vô cùng cần thiết để đảm bảo an toàn tính mạng. Làm gì khi nhồi máu cơ tim xuất hiện? Thứ nhất: Tư thế bệnh nhân: Khi có những dấu hiệu bệnh như cơn đau thắt ngực, khó thở, vã mồ hôi, chóng mặt, lạnh chân tay… cần phải khẩn trương gọi cấp cứu để đưa bệnh nhân đến bệnh viện càng sớm càng tốt. Trong lúc chờ đợi nên dùng ngay Nitroglycerin đặt dưới lưỡi bệnh nhân, giữ bệnh nhân ở trạng thái nửa nằm, nửa ngồi. Khi vận chuyển bệnh nhân phải được tiến hành bằng xe cứu thương chuyên dụng thở oxy, truyền tĩnh mạch, làm điện tim trên xe và có thể bắt đầu chữa trị. Thứ hai: Thực hiện phương pháp ép tim: Trong thời gian chờ đợi xe cứu thương, để nạn nhân nằm trên mặt phẳng cứng, người tiến hành ép tim quỳ gối bên trái nạn nhân. Hai bàn tay chồng lên nhau rồi để trước tim, tương ứng với điểm giữa hai núm vú hoặc khoang liên sườn 4 – 5 bên ngực trái, từ từ ấn sâu xuống khoảng 1/3 cho đến một nửa bề dày lồng ngực, sau đó nới lỏng tay ra. Thao tác này thực hiện 60 lần/phút. Khi ép xuống ngực bệnh nhân sẽ tạo ra một lực cơ học lên tim, tim sẽ có thể co bóp và đưa máu vào trong hệ tuần hoàn, giúp máu lưu thông. Thứ ba: Hô hấp nhân tạo: Đây là phương pháp khá dễ làm nhưng vô cùng quan trọng, giúp đảm bảo oxy cho bệnh nhân, lưu thông máu. Để nạn nhân nằm ở nơi thoáng đãng, nới rộng quần áo và dây thắt lưng, đệm dưới cổ cho đầu hơi ngửa ra sau để đảm bảo đường hô hấp được thông thoáng, lấy dị vật trong miệng nạn nhân nếu có. Đẩy đầu bệnh nhân về phía sau, nâng hai cằm lên cho hai hàm răng gần như chạm nhau đồng thời lắng nghe hơi thở nạn nhân. Sau đó bịt mũi nạn nhân, dùng miệng ngậm kín miệng nạn nhân thở hai hơi liên tiếp vào miệng nạn nhân. Thời gian dành cho chúng ta không nhiều, vì vậy cần phải tiến hành ngay các phương pháp sơ cứu kịp thời. Trước tình trạng mất ý thức do tim hay bất cứ nguyên nhân nào khác, chúng ta chỉ có 3 phút từ lúc tim ngừng đập đến khi xuất hiện những tổn thương não không hồi phục. Vì thế chúng ta phải ngay lập tức hồi sinh tim cho bệnh nhân. Thứ tư: Khi xe cấp cứu đến: Khi các nhân viên y tế đến sẽ tiến hành đặt nội khí quản (ống cắm vào cổ họng bệnh nhân để cung cấp oxy), trong lúc đó chúng ta vẫn phải tiến hành ép tim cho đến khi đến bệnh viện. Nếu bệnh nhân vẫn bị ngừng tim (tim không đập), rung tim (tim bị rung nhẹ) thì không thể bơm máu đi được nữa, khi đó phải tiến hành sốc điện ngoài lồng ngực. Sốc điện giống như một báo động mạnh gọi quả tim tỉnh dậy làm việc của nó. Nguồn điện ở máy sốc điện sẽ giật mạnh các cơ tim, tạo thể hoạt động mồi, tạo một lực giúp tim đập trở lại dễ dàng hơn. Tóm tắt các bước sơ cứu sau khi sốc điện mà tim đập trở lại coi như bệnh nhân cấp cứu thành công. Các phương pháp sơ cứu dù có thực hiện thành công thì tính mạng của bạn cũng luôn bị rình rập bởi nhồi máu cơ tim là căn bệnh khả năng tái phát rất cao. Vì vậy, thực hiện chế độ ăn uống, sinh hoạt điều độ kết hợp với sử dụng các thực phẩm bổ sung là cách tốt nhất để phòng ngừa nhồi máu cơ tim. Thân mến! [SIZE=5][B]Đau đầu, tức ngực, buồn nôn, choáng váng có phải bị u não?[/B][/SIZE] Câu hỏi bởi: Thảo ngọc Chào bác sĩ. Cháu năm nay 16 tuổi. Cháu hay bị đau 2 bên thái dương có lúc ở đỉnh đầu. Những lúc đau đầu cháu có cảm giác tức ngực như bị đau tim vậy. Đau nhói liên tục ban ngày không bị nhưng ban đêm bị cháu hay bị vậy. Cháu đôi lúc còn buồn nôn, choáng váng thấy mờ mắt. Cháu cũng hay bị mỏi tay chân nữa. Thưa bác sĩ, cháu có bị u não không ạ? Mong bác trả cho cháu. Cháu cảm ơn bác sĩ! [SIZE=3][B]Bác sĩ Chu Văn Điểu[/B][/SIZE] Chào cháu! Qua lời kể của cháu bác thấy cháu có một số biểu hiện sau đây: Đau hai bên thái dương, có lúc đau ở đỉnh đầu Buồn nôn Choáng váng Mờ mắt Tức ngực, đau nhói ở ngực vào ban đêm Cháu không nói rõ là cháu đau đầu liên tục hay từng cơn và nếu từng cơn thì mỗi cơn kéo dài mấy tiếng. Theo mô tả của cháu thì bác nghĩ là cháu đau đầu do lí do mạch máu, còn gọi là hội chứng thần kinh – mạch máu ở não. Do có sự co giãn bất thường của mạch máu não sinh ra các cơn đau đầu. Cơn đau đầu thường thấy rõ đau ở vùng thái dương, các mạch máu nổi căng và đau giật giật theo nhịp đập của mạch máu làm người bệnh rất khó chịu. Mức độ đau vừa hoặc dữ dội tuỳ theo từng bệnh nhân và đau tăng lên khi gắng sức. Trong cơn có kèm theo biểu hiện buồn nôn hoặc nôn, sợ ánh sáng và tiếng động. Cơn đau đầu kéo dài vài tiếng đến 2-3 ngày. Có bệnh nhân có biểu hiện báo trước khi cơn đau xuất hiện khoảng 30 phút các dấu hiệu rối loạn cảm giác, thị giác và ngôn ngữ, sau đó khoảng 30 phút là cơn đau xuất hiện. Cháu nên tới khoa Thần kinh để khám, chụp phim sọ não để loại trừ đau đầu do lí do thực thể. Chứng đau đầu do chuyên khoa Thần kinh khám và chữa trị. Bác nghĩ cháu bị đau đầu do vận mạch máu não thôi chứ không phải do u não. Đau đầu do vận mạch máu như phần trên bác đã nói cũng đau đầu, nôn, rối loạn cảm giác (choáng váng), rối loạn thị giác (mờ mắt). Cháu hãy đến khoa Thần kinh để khám, chụp sọ não sẽ phân biệt có u não hay không và khám luôn chứng mỏi tay chân của cháu là do đâu nữa, cháu cứ yên tâm. Còn hiện tượng tức và đau nhói liên tục ở ngực của cháu thì thuộc chuyên khoa Tim mạch khám. Nếu đau nhói ở bên ngực trái thì cũng hết sức cẩn thận, vì đó rất có thể là triệu chứng của thiểu năng động mạch vành tim. Cháu nên đi khám ngay cả hai chuyên khoa là Thần kinh và Tim mạch nhé. Chúc cháu mau khỏi bệnh! [SIZE=5][B]Nhức đầu, chóng mặt, tức ngực, khó ngủ là bị bệnh gì?[/B][/SIZE] Câu hỏi bởi: Quân Chào bác sĩ! Tôi năm nay 30 tuổi là nam. Tôi hay bị nhức đầu chóng mặt, tức ngực, đau dạ dày, khó thở thường xuất hiện nặng vào lúc chiều tối. Tôi làm việc nặng hay hoạt động quá sức là bị làm mệt nhức đầu chóng mặt. Buổi tối chạy xe thấy người khó chịu mệt người có cảm giác muốn nôn và chóng mặt muốn ngất; tối ngủ có cảm giác tức ở ngực hay dạ dày hay sao làm tôi rất khó ngủ. 1đêm giấc ngủ tôi bị gián đoạn đến 2,3 lần. Tôi đi khám thì được chẩn đoán là rối loạn thần kinh thực vật. Tôi dùng thuốc gần 2 tháng mà không hết. Bác sĩ cho tôi hỏi tôi bị gì và nên làm sao. Cảm ơn bác sĩ [SIZE=3][B]Bác sĩ Đinh Văn Tài[/B][/SIZE] Chào bạn! Các triệu chứng như bạn mô tả như: nhức đầu, chóng mặt, tức ngực, khó thở, mệt mỏi, mất ngủ,… có thể do rất nhiều lí do gây ra. Trong y học, với các vấn đề về sức khoẻ, thường chia thành rối loạn cơ năng và rối loạn thực thể. Rối loạn thực thể là các rối loạn gồm các tổn thương, bệnh lý xác định được một cách rõ ràng (hẹp động mạch vành, hở van hai lá, sỏi thận, khối u,…), trong khi rối loạn cơ năng thì không xác định được tổn thương, bệnh lý cụ thể (như tăng nhu động ruột, co thắt mạch máu, rối loạn thần kinh thực vật,…). Như vậy, tình huống của bạn trước hết cần khám sàng lọc kỹ xem có tổn thương thực thể gì không, tức là xác định xem cơ thể có bệnh lý gì không. Tuy nhiên, qua mô tả, bạn đã đi khám kiểm tra và được chẩn đoán là rối loạn thần kinh thực vật, và chắc đã được loại trừ các tổn thương thực thể. Rối loạn thần kinh thực vật khá thường gặp, đặc biệt ở người trẻ. Các biện pháp chữa trị thường không đặc hiệu, chủ yếu là chữa trị biểu hiện, an thần và tăng cường sức khoẻ. Do vậy, trước hết, bạn không nên lo lắng quá mức và hạn chế tối đa suy nghĩ căng thẳng, đây là yếu tố ảnh hưởng khá nhiều tới tình trạng rối loạn thần kinh thực vật. Đồng thời, đảm bảo chế độ ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, vitamin và khoáng chất. Sắp xếp hài hoà giữa công việc và nghỉ ngơi. Đặc biệt, bạn nên có kế hoạch tập luyện tăng cường sức khoẻ, tập thở và nên tập các môn khí công, yoga thiền và tĩnh tâm,… điều này sẽ giúp điều hoà lại cơ thể, đẩy lùi tình trạng rối loạn. Chúc bạn vui khoẻ! [SIZE=5][B]Người bệnh block nhĩ thất độ 3 đã cấy máy tạo nhịp thì sức khỏe như thế nào?[/B][/SIZE] Câu hỏi bởi: janet believe Thưa bác sĩ! Bạn trai em năm nay 23 tuổi bị bệnh block nhĩ thất độ 3. Năm anh ấy 13 tuổi khi phát hiện bệnh đã được phẫu thuật để cấy máy tạo nhịp tim biotronik GmbH. Đến năm anh ấy 20 tuổi thì có một cuộc tiểu phẫu để cấy máy tạo nhịp tim mới vì máy cũ hết pin. Máy hiện tại có thể sử dụng đến 10 năm. Vì anh ấy cấy máy tạo nhịp nên gia đình em cho rằng sức khỏe anh ấy rất yếu và có thể yếu hơn khi về già. Nếu em kết hôn với anh ấy, với tình hình sức khỏe của anh ấy ba má em nghĩ rằng anh ấy có thể chết sớm hoặc trở thành gánh nặng của em. Em thấy sức khỏe của anh ấy rất tốt có thể chơi thể thao và khuân vác vật nặng. Vì vậy gia đình em đã ngăn cấm chúng em quen nhau. Bác sĩ cho em hỏi với tình trạng bệnh của bạn em như vậy thì cấy máy tạo nhịp thì sức khỏe có như người bình thường không? Những lo lắng của gia đình em là sai phải không ạ? Em phải làm gì để thuyết phục ba má em chấp nhận anh ấy đây? Em cảm ơn bác sĩ! [SIZE=3][B]Bác sĩ Nguyễn Thị Hòa[/B][/SIZE] Chào bạn! Block nhĩ thất độ 3 hay còn gọi là block nhĩ thất hoàn toàn là bệnh lý của đường dẫn truyền điện học ở trong tim, tại đó những xung động được phát ra từ nút xoang ở tâm nhĩ không dẫn truyền xuống tâm thất được. Các bệnh nhân bị block nhĩ thất độ 3 thường có nhịp tim rất chậm (có thể chỉ khoảng 28 nhịp/phút), huyết áp thấp do vậy lưu lượng tuần hoàn thường không đáp ứng đầy đủ nhu cầu của cơ thể. Trong một số tình huống, bệnh nhân không thể hoạt động thể lực được một cách bình thường. Nếu block gây ra bởi thuốc chống loạn nhịp tim, ngừng thuốc có thể hồi phục nhịp tim bình thường mặc dù nhiều bệnh nhân cần đặt máy tạo nhịp tạm thời trong thời gian chờ thuốc hết tác dụng. Nhiều tình trạng bệnh lý có thể gây ra block nhĩ thất độ III, những lí do hay gặp nhất là do bệnh động mạch vành, sự thoái hoá từ từ của hệ thống dẫn truyền điện học của tim, nhồi máu cơ tim cấp. Bệnh còn có thể do bẩm sinh hay gặp ở những trẻ sinh ra bởi các bà mẹ mắc bệnh lupus. Bệnh được cho là do kháng thể của mẹ đi qua rau thai và tấn công vào mô tim trong quá trình mang thai. Block nhĩ thất độ 3 có thể chữa trị bằng cấy máy tạo nhịp nhân tạo 2 buồng tim. Loại máy tạo nhịp này có thể cảm nhận xung động từ nút xoang và truyền xung động xuống nút nhĩ thất với những khoảng thời gian phù hợp. Việc chữa trị cũng bao gồm sử dụng thuốc kiểm soát huyết áp và rung nhĩ cũng như thay đổi lối sống và chế độ ăn để làm giảm nguy cơ bị nhồi máu cơ tim và đột qụy. Nhiều công trình nghiên cứu về huyết động học cho biết khi bệnh nhân bị block nhĩ thất hoàn toàn được máy tạo nhịp đưa tần số tim lên khoảng 70c/phút thì lưu lượng tim đạt mức tối đa được gọi là “tần số tạo nhịp lý tưởng”. Khi nhịp tim ở tần số lý tưởng, các cơn Adams-Stokes biến đi, khó thở và suy tim cũng giảm nhẹ và nhiều khi mất hẳn, bệnh nhân có thể hoạt động 1 cách bình thường. Tuy nhiên tiên lượng bệnh nhân phụ thuộc vào nhiều yếu tố, cần thăm khám cụ thể và làm một số xét nghiệm thăm dò chức năng tim mới có thể giải đáp cho bạn cụ thể hơn được. Chúc bạn lựa chọn đúng! [SIZE=5][B]Hút thuốc nhiều có ảnh hưởng như thế nào?[/B][/SIZE] Câu hỏi bởi: nguyễn kít Em chào bác sĩ! Năm nay em 17 tuổi, em có hút thuốc được 3 năm. Có hôm em hút từ 5 đến 6 điếu, có hôm không. Hiện nay em đang theo học tại thanh nhạc. Liệu hút thuốc như này có ảnh hưởng nhiều đến giọng hát của em không ạ? Có nên cai hẳn không hay giảm bớt thôi? Dạo gần đây, em còn bị đau tức ngực, thi thoảng thì đau 1 lúc, có lúc nó kéo dài trong 5 phút, 1 ngày em bị trung bình khoảng 3 đến 4 lần. Em xem trên mạng thì em thấy người ta nói nhiều bệnh liên quan đến đau ngực, lúc đầu em nghĩ là do em bị tràn dịch thực quản vì em hay ăn đêm, xong có người lại nói với em là nên đi khám vì sợ bị ung thư vòm họng hoặc ung thư phổi. Nhưng em soi trước gương thì không thấy có khối u nào cả. Xin bác sĩ nói rõ cho em về biểu hiện này, em có nên đi khám và thay đổi chế độ ăn uống + bỏ thuốc không? Em cảm ơn bác sĩ rất nhiều! [SIZE=3][B]Bác sĩ Nguyễn Kiên Cường[/B][/SIZE] Chào em! Em nên bỏ hút thuốc lá vì hút thuốc lá không thấy lợi mà còn có hại cho sức khỏe. Hút thuốc lá thường gây viêm họng, viêm thanh quản do đó hút thuốc lá lâu dài là không tốt với giọng hát của em. Gần đây em có triệu chứng đau ngực, em cần đi khám để tìm hiểu lí do đau ngực là gì, bác sĩ khám có thể sẽ chỉ định làm xét nghiệm như điện tim, chụp phổi, xét nghiệm máu… để đánh giá một cách toàn diện. Lời khuyên là em nên đi khám sớm, không nên chủ quan với triệu chứng đau ngực, nhất là đau ngực trái, cần khám để loại trừ cơn đau thắt ngực do thiểu năng động mạch vành. Khuyên em nên bỏ hắn thuốc lá vì những bất lợi mà nó mang lại cho sức khỏe bản thân và những người xung quanh. Chúc em mạnh khỏe! [RIGHT]Theo ViCare[/RIGHT] [/QUOTE]
Xem thử
Tên
Mã xác nhận
Trả lời
Trang chủ
Tư Vấn
BÁC SỸ TRỰC TUYẾN TƯ VẤN
HỎI BÁC SỸ
Mắc bệnh động mạch vành: Nguyên nhân do đâu?
Top
Dưới