Giới khoa học phát hiện virus viêm gan C (HCV) cách đây không lâu, bởi mới năm 1989. Trước đó các bác sĩ đã biết về sự tồn tại của virus dạng B (HBV) nguy hiểm đối với gan, cũng như thủ phạm ít nguy hiểm hơn gây bệnh vàng da do thức ăn – virus A (HAV).
Thoạt đầu bệnh viêm gan được xác định do thủ phạm bí hiểm, không thuộc dạng virus A, cũng không phải dạng virus B gây ra. Sau đó kẻ thù mới được nhận dạng và được xác định bằng chữ cái tiếp theo – C.
Ngày nay khoa học đã biết rõ: giữa virus viêm gan B và C có rất nhiều điểm giống nhau, tuy nhiên cũng có khá nhiều khác biệt quan trọng. Virus B xuất hiện nhiều hơn. Thế giới có tới 2 tỷ người bị nó tấn công. Đa số tự xoay sở tuyệt vời với HBV. Có tới 80% trường hợp nhiễm HBV không bị triệu chứng gì – con người loại bỏ virus, hoàn toàn khỏe mạnh, thêm nữa đã miễn dịch với virus. Tuy nhiên ở một bộ phận trong chúng ta con bệnh không bị tiêu diệt và chuyển sang thể mạn tính. Cho đến nay khoa học vẫn chưa thể lý giải, tại sao lại có chuyện như vậy và ai có cơ may chiến thắng virus, ai phải cam phận nô lệ chúng đến suốt đời. Trái lại, khoa học biết rằng, cơ thể càng trẻ, nguy cơ bệnh chuyển sang dạng mạn tính càng lớn.
Virus viêm gan C xuất hiện hiếm hơn, song tỷ lệ lây nhiễm cao hơn, bởi có đến 70% các trường hợp mắc bệnh ở người lớn chuyển sang dạng mạn tính. Các chuyên gia dịnh tễ học ước tính, hiện thế giới có khoảng 350 triệu người mắc bệnh viêm gan B mạn tính và 170 triệu viêm gan C mạn tính.
Ba con đường nhiễm bệnh
Dễ bị lây nhiễm HBV hơn. Loại nhỏ nhất trong các loại virus khoa học đã biết có ADN (dạng viên bi đường kính 45 nanomet) có sức chịu nhiệt độ cao phi thường và thiếu độ ẩm. Nó có thể sống thậm chí vài năm trong vết máu khô dính trên dụng cụ phẫu thuật hoặc nha khoa.
Virus B lây lan chủ yếu qua đường sinh hoạt tình dục, đường truyền máu và lây từ mẹ sang con. Tại châu Á dạng lây lan cuối cùng chiếm tỷ lệ cao nhất, trong khi tại châu Âu và Mỹ - chủ yếu là hai dạng đầu.
Thông tin di truyền của virus viêm gan C không được ghi trong ADN, mà ở axít nuclein khác -RNA. Con bệnh lớn hơn hai lần virus viêm gan B, song khả năng đề kháng thấp hơn. Khó bị lây nhiễm hơn virus viêm gan B, nhưng con đường lây nhiễm y hệt. Trong trường hợp quan hệ tình dục khác giới không có bảo hiểm (không sử dụng bao cao su) nguy cơ lây nhiễm không cao hơn 5%. Trái lại quan hệ tình dục đồng giới nguy cơ nam giới bị lây nhiễm cao hơn.
Viêm nhiễm, xơ gan, ung thư gan
Hậu quả tình trạng viêm gan mạn tính, cả B và C đều có thể rất nghiêm trọng. Virus viêm gan C gây tổn thương gan chậm hơn – không hiếm trường hợp bẹnh không gây triệu chứng thậm chí suốt vài chục năm. Gan con người vốn có khả năng tự phục hồi phi thường. Tuy nhiên do hậu quả cuộc chiến giằng co với virus kéo dài nhiều năm, đến thời điểm nhất định sự phụ hồi không theo kịp quá trình hủy diệt. Hệ quả ban đầu phát triển tình trạng viêm nhiễm, tiếp theo đến gia đoạn xơ gan (các mô liên kết thay thế dần các tế bào khỏe mạnh).
Gan thực hiện gần một ngàn chức năng khác nhau trong cơ thể. Gan không chỉ giải độc cho chúng ta (trong đó có rượu), mà còn quan tâm đến quá trình biến đổi đường, sản xuất bạch cầu, lưu giữ các vitamin và các khoáng chất, sản xuất dịch mật cần thiết để tiêu hóa chất béo, duy trì trạng thái cân bằng hoóc-môn…Vậy nên không có gì ngạc nhiên, khi gan bị xơ, chỉ thời gian ngắn sẽ xuất hiện những biến chứng nghiêm trọng, như những rối lọa hoạt động não bộ và thận, tiểu đường, mối đe dọa đối với tính mạng (vì lý do nguy cơ xuất huyết nội tạng), viêm tĩnh mạch thực quản, và cuối cùng – hậu quả nghiêm trọng nhất – ung thư gan.
Xơ gan và ung thư cơ quan này – theo những đánh giá khác nhau – xảy ra với 15-40% tổng số nạn nhân viêm gan B mạn tính và khoảng 20% nạn nhân nhiễm virus viêm gan C.
Cho đến nay thực tế nền y học hiện đại vẫn bất lực với ung thư gan Cơ may duy nhất là thay gan, song nhu cầu cao hơn nhiều lần khả năng. Ung thư gan hiện đứng thứ sáu trong các bệnh ung thư gặp nhiều nhất, tuy nhiên vì những tính toán đã kể, lại là nguyên nhân thứ ba về số lượng bệnh nhân tử vong vì các bệnh ung thư trên thế giới. Các chuyên gia cảnh báo, những số liệu thống kê này trong tương lai còn xấu hơn. Theo họ, sau 10-20 năm, các bệnh gan sẽ cướp đi tại châu Âu số nạn nhân nhiều hơn tai biến não hoặc bệnh tim thiếu máu.
Vấn đề càng trở nên nan giải, bởi suốt nhiều năm tình trạng lây nhiễm virus mạn tính không để lộ triệu chứng và đa số nạn nhân bị lây nhiễm không hề ý thức được thực tế mối đe dọa. Hệ quả, số đông bắt đầu chữa trị khi đã quá muộn, ngoài ra vì không biết tình trạng nhiễm bệnh của mình, đã vô tình đổ bệnh cho người thân.
Tiêm chủng?
Đối với virus viêm gan B, từ nhiều năm chúng ta đã có vũ khí tuyệt hảo – vaccine phòng ngừa hiệu quả và an toàn. Cần tiêm chủng đủ ba liều theo sơ đồ: 0-1-6 tháng (lưu ý! Cần nhất thiết phải nhớ liều cuối, (bởi không phải nhắc lại từ đầu).
Với virus viêm gan C, tiếc rằng đến nay vẫn chưa có và nhiều khả năng còn phải chờ thời gian dài.
Với người chưa tiêm phòng virus viêm gan B, không loại trừ khả năng cùng lúc có thể bị nhiễm cả hai loại (HBV và HCV).
Tri Thức Trẻ
Thoạt đầu bệnh viêm gan được xác định do thủ phạm bí hiểm, không thuộc dạng virus A, cũng không phải dạng virus B gây ra. Sau đó kẻ thù mới được nhận dạng và được xác định bằng chữ cái tiếp theo – C.
Ngày nay khoa học đã biết rõ: giữa virus viêm gan B và C có rất nhiều điểm giống nhau, tuy nhiên cũng có khá nhiều khác biệt quan trọng. Virus B xuất hiện nhiều hơn. Thế giới có tới 2 tỷ người bị nó tấn công. Đa số tự xoay sở tuyệt vời với HBV. Có tới 80% trường hợp nhiễm HBV không bị triệu chứng gì – con người loại bỏ virus, hoàn toàn khỏe mạnh, thêm nữa đã miễn dịch với virus. Tuy nhiên ở một bộ phận trong chúng ta con bệnh không bị tiêu diệt và chuyển sang thể mạn tính. Cho đến nay khoa học vẫn chưa thể lý giải, tại sao lại có chuyện như vậy và ai có cơ may chiến thắng virus, ai phải cam phận nô lệ chúng đến suốt đời. Trái lại, khoa học biết rằng, cơ thể càng trẻ, nguy cơ bệnh chuyển sang dạng mạn tính càng lớn.
Virus viêm gan C xuất hiện hiếm hơn, song tỷ lệ lây nhiễm cao hơn, bởi có đến 70% các trường hợp mắc bệnh ở người lớn chuyển sang dạng mạn tính. Các chuyên gia dịnh tễ học ước tính, hiện thế giới có khoảng 350 triệu người mắc bệnh viêm gan B mạn tính và 170 triệu viêm gan C mạn tính.
Ba con đường nhiễm bệnh
Dễ bị lây nhiễm HBV hơn. Loại nhỏ nhất trong các loại virus khoa học đã biết có ADN (dạng viên bi đường kính 45 nanomet) có sức chịu nhiệt độ cao phi thường và thiếu độ ẩm. Nó có thể sống thậm chí vài năm trong vết máu khô dính trên dụng cụ phẫu thuật hoặc nha khoa.
Virus B lây lan chủ yếu qua đường sinh hoạt tình dục, đường truyền máu và lây từ mẹ sang con. Tại châu Á dạng lây lan cuối cùng chiếm tỷ lệ cao nhất, trong khi tại châu Âu và Mỹ - chủ yếu là hai dạng đầu.
Thông tin di truyền của virus viêm gan C không được ghi trong ADN, mà ở axít nuclein khác -RNA. Con bệnh lớn hơn hai lần virus viêm gan B, song khả năng đề kháng thấp hơn. Khó bị lây nhiễm hơn virus viêm gan B, nhưng con đường lây nhiễm y hệt. Trong trường hợp quan hệ tình dục khác giới không có bảo hiểm (không sử dụng bao cao su) nguy cơ lây nhiễm không cao hơn 5%. Trái lại quan hệ tình dục đồng giới nguy cơ nam giới bị lây nhiễm cao hơn.
Viêm nhiễm, xơ gan, ung thư gan
Hậu quả tình trạng viêm gan mạn tính, cả B và C đều có thể rất nghiêm trọng. Virus viêm gan C gây tổn thương gan chậm hơn – không hiếm trường hợp bẹnh không gây triệu chứng thậm chí suốt vài chục năm. Gan con người vốn có khả năng tự phục hồi phi thường. Tuy nhiên do hậu quả cuộc chiến giằng co với virus kéo dài nhiều năm, đến thời điểm nhất định sự phụ hồi không theo kịp quá trình hủy diệt. Hệ quả ban đầu phát triển tình trạng viêm nhiễm, tiếp theo đến gia đoạn xơ gan (các mô liên kết thay thế dần các tế bào khỏe mạnh).
Gan thực hiện gần một ngàn chức năng khác nhau trong cơ thể. Gan không chỉ giải độc cho chúng ta (trong đó có rượu), mà còn quan tâm đến quá trình biến đổi đường, sản xuất bạch cầu, lưu giữ các vitamin và các khoáng chất, sản xuất dịch mật cần thiết để tiêu hóa chất béo, duy trì trạng thái cân bằng hoóc-môn…Vậy nên không có gì ngạc nhiên, khi gan bị xơ, chỉ thời gian ngắn sẽ xuất hiện những biến chứng nghiêm trọng, như những rối lọa hoạt động não bộ và thận, tiểu đường, mối đe dọa đối với tính mạng (vì lý do nguy cơ xuất huyết nội tạng), viêm tĩnh mạch thực quản, và cuối cùng – hậu quả nghiêm trọng nhất – ung thư gan.
Xơ gan và ung thư cơ quan này – theo những đánh giá khác nhau – xảy ra với 15-40% tổng số nạn nhân viêm gan B mạn tính và khoảng 20% nạn nhân nhiễm virus viêm gan C.
Cho đến nay thực tế nền y học hiện đại vẫn bất lực với ung thư gan Cơ may duy nhất là thay gan, song nhu cầu cao hơn nhiều lần khả năng. Ung thư gan hiện đứng thứ sáu trong các bệnh ung thư gặp nhiều nhất, tuy nhiên vì những tính toán đã kể, lại là nguyên nhân thứ ba về số lượng bệnh nhân tử vong vì các bệnh ung thư trên thế giới. Các chuyên gia cảnh báo, những số liệu thống kê này trong tương lai còn xấu hơn. Theo họ, sau 10-20 năm, các bệnh gan sẽ cướp đi tại châu Âu số nạn nhân nhiều hơn tai biến não hoặc bệnh tim thiếu máu.
Vấn đề càng trở nên nan giải, bởi suốt nhiều năm tình trạng lây nhiễm virus mạn tính không để lộ triệu chứng và đa số nạn nhân bị lây nhiễm không hề ý thức được thực tế mối đe dọa. Hệ quả, số đông bắt đầu chữa trị khi đã quá muộn, ngoài ra vì không biết tình trạng nhiễm bệnh của mình, đã vô tình đổ bệnh cho người thân.
Tiêm chủng?
Đối với virus viêm gan B, từ nhiều năm chúng ta đã có vũ khí tuyệt hảo – vaccine phòng ngừa hiệu quả và an toàn. Cần tiêm chủng đủ ba liều theo sơ đồ: 0-1-6 tháng (lưu ý! Cần nhất thiết phải nhớ liều cuối, (bởi không phải nhắc lại từ đầu).
Với virus viêm gan C, tiếc rằng đến nay vẫn chưa có và nhiều khả năng còn phải chờ thời gian dài.
Với người chưa tiêm phòng virus viêm gan B, không loại trừ khả năng cùng lúc có thể bị nhiễm cả hai loại (HBV và HCV).
Tri Thức Trẻ