CHÙM HÔI TRẮNG
Tên khác: Cà ri, Xan tróc.
Tên khoa học: Murraya koenigii (L.) Spreng.; thuộc họ Cam (Rutaceae).
Bộ phận dùng: Quả, lá, vỏ và rễ (Fructus,Folium, Cortex et Radix Murrayae Koenigii).
Phân bố sinh thái: Khá phổ biến ở Campuchia và Lào, Ấn Độ, Nam Trung Quốc, Indonesia và Việt Nam. Ở nước ta, cây mọc ở Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà, có thể là cây trồng.
Thành phần hoá học: Vỏ rễ có một tỷ lệ cao tinh dầu và một glucosid koenigin.
Tính vị, tác dụng: Lá có vị đắng hơi chua, mùi thơm rất nổi; quả và lá đều làm săn da. Vỏ và rễ kích thích và bổ.
Công dụng:
- Ở Ấn Độ, người ta trồng chủ yếu để lấy lá mà người ta dùng như là gia vị và làm thuốc. Lá dùng phần lớn để chế bột cary. Quả, lá dùng để trị lỵ, ỉa chảy và sốt rét. Ở Ấn Độ, người ta dùng ăn sáng để trị lỵ, nghiền nát ra và đắp ngoài để trị phát ban da; dùng sắc với rượu bia đắng lấy nước như là thuốc hạ sốt và dùng trị rắn cắn. Vỏ và rễ được dùng trị phát ban da và vết cắn của động vật có độc.
- Ở miền Trung nước ta, người ta cũng dùng lá trong ăn uống và nấu nước dùng tắm cho trẻ em bị bệnh ghẻ.
Tên khác: Cà ri, Xan tróc.
Tên khoa học: Murraya koenigii (L.) Spreng.; thuộc họ Cam (Rutaceae).
Mô tả: Cây bụi cao 1-2m, có các nhánh màu tía sẫm. Lá kép lông chim lẻ với 17-21 dụi lá chét dài 3-5cm, mọc so le, hình trái xoan thon, không cân xứng, nhẵn hay hơi có lông mịn, nhạt ở mặt dưới; mép có răng tròn thấp, gân phụ 4-6 cặp, lồi rõ ở mặt dưới. Hoa nhỏ, màu trắng có mùi không thơm lắm, tập hợp thành ngù kép ở ngọn ngắn hơn lá. Quả dạng quả mọng, dài 1cm, màu tía sẫm, có tuyến, với 1-2 hạt bao bởi chất nhầy.Bộ phận dùng: Quả, lá, vỏ và rễ (Fructus,Folium, Cortex et Radix Murrayae Koenigii).
Phân bố sinh thái: Khá phổ biến ở Campuchia và Lào, Ấn Độ, Nam Trung Quốc, Indonesia và Việt Nam. Ở nước ta, cây mọc ở Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà, có thể là cây trồng.
Thành phần hoá học: Vỏ rễ có một tỷ lệ cao tinh dầu và một glucosid koenigin.
Tính vị, tác dụng: Lá có vị đắng hơi chua, mùi thơm rất nổi; quả và lá đều làm săn da. Vỏ và rễ kích thích và bổ.
Công dụng:
- Ở Ấn Độ, người ta trồng chủ yếu để lấy lá mà người ta dùng như là gia vị và làm thuốc. Lá dùng phần lớn để chế bột cary. Quả, lá dùng để trị lỵ, ỉa chảy và sốt rét. Ở Ấn Độ, người ta dùng ăn sáng để trị lỵ, nghiền nát ra và đắp ngoài để trị phát ban da; dùng sắc với rượu bia đắng lấy nước như là thuốc hạ sốt và dùng trị rắn cắn. Vỏ và rễ được dùng trị phát ban da và vết cắn của động vật có độc.
- Ở miền Trung nước ta, người ta cũng dùng lá trong ăn uống và nấu nước dùng tắm cho trẻ em bị bệnh ghẻ.