Táo bón ở trẻ em là tình trạng khá phổ biến. Thế nào là táo bón ở trẻ, ngăn ngừa và xử lý tình trạng táo bón của bé tại nhà bằng cách nào? Bài này sẽ giúp phụ huynh hiểu rõ hơn những thắc mắc xung quanh vấn đề trên.
Khi trẻ bị táo bón, biện pháp tốt nhất là nên đưa bé đi khám và nghe theo ý kiến bác sĩ về việc điều trị táo bón.
Trẻ đi tiêu như thế nào gọi là táo bón?
Thông thường, trong tuần lễ đầu sau sinh, trẻ thường đi cầu khoảng 4 lần/ngày, phân của trẻ mềm hoặc lỏng (thường gặp ở trẻ bú mẹ nhiều hơn trẻ bú bình).
Ba tháng đầu sau sinh, trẻ bú mẹ thường đi cầu phân mềm khoảng 3 lần/ngày; một số trẻ bú mẹ đi cầu sau mỗi lần bú; đặc biệt một số trẻ chỉ đi cầu một lần trong suốt cả tuần, thậm chí cả 12 ngày. Hầu hết các trẻ bú mẹ hiếm khi bị táo bón. Trong khi đó, ở lứa tuổi này, trẻ bú bình thường đi cầu từ 2-3 lần/ngày, dù điều này còn tùy thuộc vào loại sữa công thức bé uống. 2 tuổi trở lên, trẻ chỉ còn đi cầu từ 1-2 lần mỗi ngày.
Trong khi đó, trẻ bị táo bón có số lần đi cầu ít hơn bình thường, đi cầu phân cứng hay phân to, bài tiết khó khăn và đau. Nếu tình trạng này kéo dài hơn 2 tuần được gọi là táo bón mạn (tính), trước thời gian này được gọi là táo bón cấp (tính).
Dấu hiệu nhận biết:
Trẻ nhỏ hơn 12 tháng:
Trẻ bị táo bón thường đi cầu có phân trông cứng và giống như các viên bi tròn nhỏ (còn gọi là phân dê). Trẻ có thể khóc khi cố gắng rặn hay đi cầu ít lần hơn trước đó, nghĩa là trẻ đi cầu 1 lần/ 1-2 ngày so với thói quen trước đó là 3-4 lần/ ngày. Cần lưu ý ở lứa tuổi này, các cơ thành bụng còn yếu nên bé thường rặn khi đi cầu, làm cho mặt bé đỏ lên. Do đó nếu bé đi phân mềm sau vài phút rặn thì không phải bị táo bón.
Trẻ nhỏ có thể uốn cong lưng, khép chặt mông và khóc.
Trẻ mới biết đi sẽ lắc lư tới lui trong khi gồng chân và mông, uốn cong lưng, nhón gót, vặn vẹo, bồn chồn, có thể ngồi chồm hổm, hoặc có tư thế bất thường.
Trẻ lớn hơn:
Nếu trẻ đi cầu ít lần hơn bình thường hoặc than đau khi đi cầu, có thể trẻ đang bị táo bón. Ví dụ: bình thường bé đi cầu 1-2 lần mỗi ngày, nếu đến 2 ngày mà trẻ vẫn chưa đi thì có thể trẻ bị táo bón.
Nhiều bé bị táo bón đã hình thành “thói quen” bất thường là nín nhịn để giữ phân lại khi chúng cảm thấy mắc đi cầu.
Trẻ em lớn có thể trốn ở một góc hoặc một nơi nào khác trong khi thực hiện việc này.
Hậu quả của táo bón
Dù những động tác trên nhìn giống như trẻ đang cố gắng để đi cầu, nhưng sự thật trẻ cố để không đi cầu vì một số lý do: Chúng không có một nơi cảm thấy “thoải mái”, hoặc trẻ “bận bịu” và bỏ qua nhu cầu đi vệ sinh. Khi đi cầu, việc này có thể làm trẻ đau nên trẻ nín luôn để tránh bị đau hơn. Đôi khi, trẻ có thể bị rách hậu môn (giới y khoa gọi là nứt hậu môn) sau khi đi phân to và cứng. Đau do rách hậu môn có thể dẫn đến sự nín đi cầu. Thậm chí, trẻ có thể học cách nín luôn vì sợ đau.
Cần lưu ý phát hiện hành vi này để phòng ngừa hoặc điều trị sớm táo bón cho trẻ. Nếu trẻ bị “bỏ quên” hay “thoát” khỏi sự kiểm soát, sẽ dễ bị rơi vào vòng luẩn quẩn của táo bón: Nhịn để khỏi đi cầu, khiến phân ở lâu trong cơ thể càng lớn và càng khô cứng, đến khi đi cầu phải rặn nhiều và làm rách hậu môn gây đau, chảy máu. Do đó, trẻ càng sợ lại càng nín nhiều hơn. Cuối cùng, khối phân đóng cứng trong trực tràng (phần cuối cùng của ống tiêu hóa nối với lỗ hậu môn) lớn dần khiến trẻ không thể giữ được phân nữa nên làm són phân ra quần (dân gian thường gọi là ị đùn). Theo thời gian, phần phân lỏng (mới hình thành sau các bữa ăn) hoặc phân kích thích trực tràng len ra ngoài khiến trẻ thực sự xấu hổ và sợ hãi nên sẽ thu mình lại không tham gia các hoạt động trường lớp như các bạn cùng lứa.
Sau một tuổi, trẻ bị táo bón phần lớn đều do nguyên nhân chức năng, nghĩa là không do bệnh lý gì cả mà chỉ do “hậu quả” của hành vi nín giữ ở trên. Khoảng 5% trẻ bị táo bón là do các bệnh lý thực thể. Táo bón do bệnh lý thường không tự hết, hay kèm theo các biểu hiện bất thường khác và trẻ thường suy dinh dưỡng. Có rất nhiều nguyên nhân như ruột già của trẻ quá to, hẹp hậu môn, rối loạn vận động ruột do bất thường thần kinh, bệnh nội tiết chuyển hóa, bệnh thần kinh, cơ… Đối với nhóm nguyên nhân này cần điều trị bệnh tận gốc mới hết táo bón.
Táo bón thường xảy ra vào 3 thời điểm sau: Khi trẻ bắt đầu ăn bột ngũ cốc và trái cây nghiền; suốt thời gian tập ngồi bô/bàn cầu và sau khi bắt đầu đi học.
Khi nào đưa trẻ đến bệnh viện?
Khi trẻ bị táo bón, biện pháp tốt nhất là nên đưa bé đi khám và nghe theo ý kiến bác sĩ về việc điều trị táo bón. Ngoài ra, cần đưa trẻ đến ngay cơ sở y tế khi có các dấu hiệu sau:
- Đi ngay khi bé đau bụng dữ dội
- Bé nhỏ hơn 4 tháng chưa đi tiêu sau hơn 24 giờ so với bình thường (ví dụ bình thường bé đi tiêu 2 ngày/lần, nhưng đã 3 ngày vẫn chưa đi tiêu)
- Bé nhỏ hơn 4 tháng đi tiêu phân cứng thay vì mềm hoặc sệt.
- Bé đi tiêu phân có máu.
- Bé đau khi đi tiêu.
- Bé đã bị nhiều đợt táo bón.
- Hoặc khi phụ huynh cảm thấy bất an.
Điều trị táo bón tại nhà
Đa số các trường hợp táo bón có thể điều trị tại nhà. Dù những biện pháp này khá đơn giản nhưng chúng thường có hiệu quả trong vòng 24 giờ.
Trẻ từ 6- 12 tháng tuổi:
- Nước trái cây: Có thể cho trẻ uống một số loại nước trái cây nguyên chất có tác dụng điều trị táo bón như mận, táo, lê. Những loại nước trái cây khác không có hiệu quả bằng các loại trên.
Trẻ từ 6-8 tháng tuổi: Có thể cho uống nước trái cây từ 60
-120ml/ngày.
Trẻ từ 8-12 tháng tuổi: Uống nước trái cây tối đa 180ml/ngày.
- Các loại thức ăn nhiều chất xơ: Nếu trẻ bắt đầu ăn thức ăn đặc, phụ huynh có thể dùng bột ngũ cốc lúa mạch thay cho bột ngũ cốc gạo. Ngoài ra, cũng có thể thử các loại trái cây có nhiều chất xơ và rau (đã nghiền nát) như mơ, khoai lang, lê, mận, đào, đậu, đậu Hà Lan, bông cải hoặc cải bó xôi. Bạn có thể trộn nước trái cây (táo, mận, lê) với bột ngũ cốc, hoặc trái cây/ rau cải nghiền nát.
- Các loại sữa công thức có chất sắt: Hàm lượng chất sắt trong sữa công thức dành cho trẻ nhỏ rất ít nên sẽ không gây ra hoặc làm nặng thêm tình trạng táo bón. Vì vậy, phụ huynh không cần đổi sữa có nồng độ sắt thấp. Nếu trẻ có tình trạng dị ứng đạm sữa bò, bác sĩ có thể đề nghị cho trẻ uống loại sữa công thức. Do đó, nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi đổi bất kỳ loại sữa công thức nào.
- Siro sắt chứa nồng độ sắt cao hơn và đôi khi có thể gây táo bón. Vì vậy, đối với những trẻ nhỏ cần uống giọt sắt, có thể cần thay đổi chế độ ăn hoặc chế độ điều trị khác để đảm bảo trẻ không bị táo bón.
Trẻ lớn:
- Nước trái cây: Tương tự như ở trẻ nhỏ, nước trái cây mận, táo, lê nguyên chất có thể giúp làm mềm phân ở trẻ lớn.
Trẻ từ 1-6 tuổi: Không cho uống quá 180ml/ngày.
Trẻ > 7 tuổi có thể uống tối đa 1- 2 ly 120ml/ngày.
- Thức ăn: Cho trẻ ăn đủ 4 nhóm thực phẩm, gồm thức ăn nguyên hạt (không chà bóng), trái cây và rau.
- Khi áp dụng các biện pháp trên vẫn không cải thiện tình trạng táo bón của trẻ, có thể trẻ không dung nạp được với đạm sữa bò. Phụ huynh có thể phải ngưng không cho trẻ dùng sữa bò và các sản phẩm từ sữa bò như ya-ua, phomai và kem trong 1-2 tuần, dù với số lượng rất nhỏ. Nếu vẫn không cải thiện có thể cho bé dùng sữa bò trở lại và đưa trẻ đi khám bác sĩ.
Khi trẻ bị táo bón, biện pháp tốt nhất là nên đưa bé đi khám và nghe theo ý kiến bác sĩ về việc điều trị táo bón.
Trẻ đi tiêu như thế nào gọi là táo bón?
Thông thường, trong tuần lễ đầu sau sinh, trẻ thường đi cầu khoảng 4 lần/ngày, phân của trẻ mềm hoặc lỏng (thường gặp ở trẻ bú mẹ nhiều hơn trẻ bú bình).
Ba tháng đầu sau sinh, trẻ bú mẹ thường đi cầu phân mềm khoảng 3 lần/ngày; một số trẻ bú mẹ đi cầu sau mỗi lần bú; đặc biệt một số trẻ chỉ đi cầu một lần trong suốt cả tuần, thậm chí cả 12 ngày. Hầu hết các trẻ bú mẹ hiếm khi bị táo bón. Trong khi đó, ở lứa tuổi này, trẻ bú bình thường đi cầu từ 2-3 lần/ngày, dù điều này còn tùy thuộc vào loại sữa công thức bé uống. 2 tuổi trở lên, trẻ chỉ còn đi cầu từ 1-2 lần mỗi ngày.
Trong khi đó, trẻ bị táo bón có số lần đi cầu ít hơn bình thường, đi cầu phân cứng hay phân to, bài tiết khó khăn và đau. Nếu tình trạng này kéo dài hơn 2 tuần được gọi là táo bón mạn (tính), trước thời gian này được gọi là táo bón cấp (tính).
Trẻ nhỏ hơn 12 tháng:
Trẻ bị táo bón thường đi cầu có phân trông cứng và giống như các viên bi tròn nhỏ (còn gọi là phân dê). Trẻ có thể khóc khi cố gắng rặn hay đi cầu ít lần hơn trước đó, nghĩa là trẻ đi cầu 1 lần/ 1-2 ngày so với thói quen trước đó là 3-4 lần/ ngày. Cần lưu ý ở lứa tuổi này, các cơ thành bụng còn yếu nên bé thường rặn khi đi cầu, làm cho mặt bé đỏ lên. Do đó nếu bé đi phân mềm sau vài phút rặn thì không phải bị táo bón.
Trẻ nhỏ có thể uốn cong lưng, khép chặt mông và khóc.
Trẻ mới biết đi sẽ lắc lư tới lui trong khi gồng chân và mông, uốn cong lưng, nhón gót, vặn vẹo, bồn chồn, có thể ngồi chồm hổm, hoặc có tư thế bất thường.
Trẻ lớn hơn:
Nếu trẻ đi cầu ít lần hơn bình thường hoặc than đau khi đi cầu, có thể trẻ đang bị táo bón. Ví dụ: bình thường bé đi cầu 1-2 lần mỗi ngày, nếu đến 2 ngày mà trẻ vẫn chưa đi thì có thể trẻ bị táo bón.
Nhiều bé bị táo bón đã hình thành “thói quen” bất thường là nín nhịn để giữ phân lại khi chúng cảm thấy mắc đi cầu.
Trẻ em lớn có thể trốn ở một góc hoặc một nơi nào khác trong khi thực hiện việc này.
Hậu quả của táo bón
Dù những động tác trên nhìn giống như trẻ đang cố gắng để đi cầu, nhưng sự thật trẻ cố để không đi cầu vì một số lý do: Chúng không có một nơi cảm thấy “thoải mái”, hoặc trẻ “bận bịu” và bỏ qua nhu cầu đi vệ sinh. Khi đi cầu, việc này có thể làm trẻ đau nên trẻ nín luôn để tránh bị đau hơn. Đôi khi, trẻ có thể bị rách hậu môn (giới y khoa gọi là nứt hậu môn) sau khi đi phân to và cứng. Đau do rách hậu môn có thể dẫn đến sự nín đi cầu. Thậm chí, trẻ có thể học cách nín luôn vì sợ đau.
Cần lưu ý phát hiện hành vi này để phòng ngừa hoặc điều trị sớm táo bón cho trẻ. Nếu trẻ bị “bỏ quên” hay “thoát” khỏi sự kiểm soát, sẽ dễ bị rơi vào vòng luẩn quẩn của táo bón: Nhịn để khỏi đi cầu, khiến phân ở lâu trong cơ thể càng lớn và càng khô cứng, đến khi đi cầu phải rặn nhiều và làm rách hậu môn gây đau, chảy máu. Do đó, trẻ càng sợ lại càng nín nhiều hơn. Cuối cùng, khối phân đóng cứng trong trực tràng (phần cuối cùng của ống tiêu hóa nối với lỗ hậu môn) lớn dần khiến trẻ không thể giữ được phân nữa nên làm són phân ra quần (dân gian thường gọi là ị đùn). Theo thời gian, phần phân lỏng (mới hình thành sau các bữa ăn) hoặc phân kích thích trực tràng len ra ngoài khiến trẻ thực sự xấu hổ và sợ hãi nên sẽ thu mình lại không tham gia các hoạt động trường lớp như các bạn cùng lứa.
Sau một tuổi, trẻ bị táo bón phần lớn đều do nguyên nhân chức năng, nghĩa là không do bệnh lý gì cả mà chỉ do “hậu quả” của hành vi nín giữ ở trên. Khoảng 5% trẻ bị táo bón là do các bệnh lý thực thể. Táo bón do bệnh lý thường không tự hết, hay kèm theo các biểu hiện bất thường khác và trẻ thường suy dinh dưỡng. Có rất nhiều nguyên nhân như ruột già của trẻ quá to, hẹp hậu môn, rối loạn vận động ruột do bất thường thần kinh, bệnh nội tiết chuyển hóa, bệnh thần kinh, cơ… Đối với nhóm nguyên nhân này cần điều trị bệnh tận gốc mới hết táo bón.
Táo bón thường xảy ra vào 3 thời điểm sau: Khi trẻ bắt đầu ăn bột ngũ cốc và trái cây nghiền; suốt thời gian tập ngồi bô/bàn cầu và sau khi bắt đầu đi học.
Khi nào đưa trẻ đến bệnh viện?
Khi trẻ bị táo bón, biện pháp tốt nhất là nên đưa bé đi khám và nghe theo ý kiến bác sĩ về việc điều trị táo bón. Ngoài ra, cần đưa trẻ đến ngay cơ sở y tế khi có các dấu hiệu sau:
- Đi ngay khi bé đau bụng dữ dội
- Bé nhỏ hơn 4 tháng chưa đi tiêu sau hơn 24 giờ so với bình thường (ví dụ bình thường bé đi tiêu 2 ngày/lần, nhưng đã 3 ngày vẫn chưa đi tiêu)
- Bé nhỏ hơn 4 tháng đi tiêu phân cứng thay vì mềm hoặc sệt.
- Bé đi tiêu phân có máu.
- Bé đau khi đi tiêu.
- Bé đã bị nhiều đợt táo bón.
- Hoặc khi phụ huynh cảm thấy bất an.
Điều trị táo bón tại nhà
Đa số các trường hợp táo bón có thể điều trị tại nhà. Dù những biện pháp này khá đơn giản nhưng chúng thường có hiệu quả trong vòng 24 giờ.
Trẻ từ 6- 12 tháng tuổi:
- Nước trái cây: Có thể cho trẻ uống một số loại nước trái cây nguyên chất có tác dụng điều trị táo bón như mận, táo, lê. Những loại nước trái cây khác không có hiệu quả bằng các loại trên.
Trẻ từ 6-8 tháng tuổi: Có thể cho uống nước trái cây từ 60
-120ml/ngày.
Trẻ từ 8-12 tháng tuổi: Uống nước trái cây tối đa 180ml/ngày.
- Các loại thức ăn nhiều chất xơ: Nếu trẻ bắt đầu ăn thức ăn đặc, phụ huynh có thể dùng bột ngũ cốc lúa mạch thay cho bột ngũ cốc gạo. Ngoài ra, cũng có thể thử các loại trái cây có nhiều chất xơ và rau (đã nghiền nát) như mơ, khoai lang, lê, mận, đào, đậu, đậu Hà Lan, bông cải hoặc cải bó xôi. Bạn có thể trộn nước trái cây (táo, mận, lê) với bột ngũ cốc, hoặc trái cây/ rau cải nghiền nát.
- Các loại sữa công thức có chất sắt: Hàm lượng chất sắt trong sữa công thức dành cho trẻ nhỏ rất ít nên sẽ không gây ra hoặc làm nặng thêm tình trạng táo bón. Vì vậy, phụ huynh không cần đổi sữa có nồng độ sắt thấp. Nếu trẻ có tình trạng dị ứng đạm sữa bò, bác sĩ có thể đề nghị cho trẻ uống loại sữa công thức. Do đó, nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi đổi bất kỳ loại sữa công thức nào.
- Siro sắt chứa nồng độ sắt cao hơn và đôi khi có thể gây táo bón. Vì vậy, đối với những trẻ nhỏ cần uống giọt sắt, có thể cần thay đổi chế độ ăn hoặc chế độ điều trị khác để đảm bảo trẻ không bị táo bón.
Trẻ lớn:
- Nước trái cây: Tương tự như ở trẻ nhỏ, nước trái cây mận, táo, lê nguyên chất có thể giúp làm mềm phân ở trẻ lớn.
Trẻ từ 1-6 tuổi: Không cho uống quá 180ml/ngày.
Trẻ > 7 tuổi có thể uống tối đa 1- 2 ly 120ml/ngày.
- Thức ăn: Cho trẻ ăn đủ 4 nhóm thực phẩm, gồm thức ăn nguyên hạt (không chà bóng), trái cây và rau.
- Khi áp dụng các biện pháp trên vẫn không cải thiện tình trạng táo bón của trẻ, có thể trẻ không dung nạp được với đạm sữa bò. Phụ huynh có thể phải ngưng không cho trẻ dùng sữa bò và các sản phẩm từ sữa bò như ya-ua, phomai và kem trong 1-2 tuần, dù với số lượng rất nhỏ. Nếu vẫn không cải thiện có thể cho bé dùng sữa bò trở lại và đưa trẻ đi khám bác sĩ.
Mẹ yêu con
Bài viết cùng chủ đề
- “Kéo dài” chiều cao cho con
- 0
- 1,362
- “Chữa bệnh” tâm lý ở trẻ
- 0
- 1,136
- Đừng “ủ” con quá kỹ
- 0
- 1,316
- Đừng hôn lên môi trẻ
- 0
- 2,170