Sucralose là chất tạo ngọt không có giá trị dinh dưỡng mới nhất trên thị trường và được biết đến nhiều do được sản xuất từ đường. Sucralose là thành phần chính trong sản phẩm “Splenda”, có độ ngọt gấp 600 lần đường mía. Khi sử dụng một mình, Sucralose không cung cấp calori và không được hấp thu hoàn toàn. Từ năm 1998 sucralose đã được cho phép sử dụng nhưng hạn chế, đến năm 1999, sucralose được phê duyệt để sử dụng như một chất làm ngọt có mục đích và được tìm thấy trong hơn 4.500 sản phẩm, kể cả thực ẩm ăn liền. Chất làm ngọt nhân tạo này có thể dùng để nấu ăn, do đó đã nhanh chóng trở thành một trong những chất làm ngọt nhân tạo phổ biến nhất và có lượng tiêu thụ cao.
FDA đã nghiên cứu trên con người và động vật và xác định sucralose không gây ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư, sinh sản, và hệ thần kinh. Lượng tiêu thụ hàng ngày có thể chấp nhận được (ADI) cho sucralose là 5 mg/kg trọng lượng cơ thể/ngày. Để xác định ADI của bạn, hãy chia trọng lượng cơ thể bạn cho 2,2 (trọng lượng được tính bằng đơn vị bảnh Anh – lbs) và sau đó nhân nó lên 50. Ví dụ, nếu bạn nặng 200 lbs. Trọng lượng của bạn tính bằng đơn vị kg sẽ là 91 (200 chia cho 2,2) và ADI cho sucralose sẽ là 455 mg (91 x 5) =4,55g
Sucralose có những khuyết điểm gì?
Mặc dù được sản xuất từ đường nhưng sucralose không phải đường. Sucralose được phát hiện khi người ta đang nghiên cứu tạo ra một loại thuốc trừ sâu mới.
Nó có thể được bắt đầu từ đường, nhưng sản phẩm cuối cùng là một hợp chất hoàn toàn khác đường. Cuốn Sweet Deception mô tả sucralose được thực hiện khi xử lý đường bằng trityl chloride, anhydride acetic, hydrogen chlorine, thionyl chloride, và methanol với sự hiện diện của dimethylformamide, 4 -methylmorpholine, toluene, methytl isobutyl ketone, acetic acid, benzyltriethlyammonium chloride và sodium methoxide, làm cho nó không giống như bất cứ thứ gì được tìm thấy trong tự nhiên. Trên các trang web của Splenda và bán sản phẩm Splenda đều có ghi một dòng nhỏ “mặc dù sucralose có cấu trúc và hương vị như đường, nhưng nó không phải là tự nhiên.”
Sucralose là tên gọi đang gây hiểu nhầm. Chữ cuối -ose được sử dụng để đặt tên đường, không phải chất phụ gia. Sucralose được phát âm rất gần giống với đường sucrose, và có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Kết quả là người ta đã đặt một tên khác chính xác hơn cho cấu trúc của sucralose, đó là trichlorogalactosucrose, nhưng FDA đã cho rằng không cần thiết để sử dụng tên này thay cho sucralose vốn đã được cấp phép.
Sự hiện diện của chlorine trong cấu trúc được cho là thành phần nguy hiểm nhất của sucralose. Chlorine được coi là một chất gây ung thư đã được sử dụng trong khí độc, chất khử trùng, thuốc trừ sâu và nhựa. Sự tiêu hóa và hấp thu của sucralose cũng không được rõ ràng do thiếu các nghiên cứu lâu dài trên con người. Phần lớn các nghiên cứu đều được thực hiện trên động vật trong các khoảng thời gian dài ngắn khác nhau. Các triệu chứng bị cáo buộc liên quan đến sucralose là những vấn đề liên quan đên tiêu hóa (đầy hơi, tiêu chảy) dị ứng da, khó thở, ho, đau ngực, cáu ghắt, tâm trạng thất thường, trầm cảm và ngứa mắt…. Cách duy nhất để đảm bảo sự an toàn của sucralose là cần có nghiên cứu dài hạn trên con người.
Splenda là một sản phẩm có chứa chất làm ngọt nhân tạo sucralose trong thành phần. Sucralose không chứa calo, nhưng bởi vì nó ngọt hơn đường 600 lần, do đó chỉ cần một lượng rất nhỏ là đã đạt được vị ngọt mong muốn. Hai thành phần khác trong Splenda là dextrose và maltodextrin, được sử dụng để tăng số lượng carbohydrates có chứa calori. Một cốc Splenda có chứa 96 calories và 32 gram carbohydrate, nhưng thường không được người tiêu dùng chú ý do trên nhãn ghi rằng đây là một chất làm ngọt không chứa calo. Các chất này được tìm thấy trong rất nhiều các sản phẩm và có thể được sử dụng để nấu ăn, người ta vẫn vô tư dùng 1 cốc hoặc nhiều hơn mỗi ngày. Một nghiên cứu gần đây cho thấy rằng Splenda đã gây ảnh hưởng đến sự hấp thu thuốc ở loài chuột. Những con chuột được cho sử dụng sucralose với liều 1,1-11 mg / kg. Sau 12 tuần, người ta đã phát hiện trên những con chuột chỉ còn một nửa lượng vi khuẩn tốt trong đường ruột. Splenda cũng gây cản trở sự hấp thu của thuốc theo toa, nhưng cách duy nhất để biết chắc chắn là nên thực hiện nghiên cứu dài hạn trên con người. Số lượng hạn chế của các nghiên cứu ngắn và dài hạn trên sucralose không đủ để khẳng định điều gì, để bảo đảm an toàn cho chính bản thân mình chúng ta phải đọc những thông tin liên quan để có sự cân nhắc và lựa chọn trước khi sử dụng
FDA đã nghiên cứu trên con người và động vật và xác định sucralose không gây ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư, sinh sản, và hệ thần kinh. Lượng tiêu thụ hàng ngày có thể chấp nhận được (ADI) cho sucralose là 5 mg/kg trọng lượng cơ thể/ngày. Để xác định ADI của bạn, hãy chia trọng lượng cơ thể bạn cho 2,2 (trọng lượng được tính bằng đơn vị bảnh Anh – lbs) và sau đó nhân nó lên 50. Ví dụ, nếu bạn nặng 200 lbs. Trọng lượng của bạn tính bằng đơn vị kg sẽ là 91 (200 chia cho 2,2) và ADI cho sucralose sẽ là 455 mg (91 x 5) =4,55g
Sucralose có những khuyết điểm gì?
Mặc dù được sản xuất từ đường nhưng sucralose không phải đường. Sucralose được phát hiện khi người ta đang nghiên cứu tạo ra một loại thuốc trừ sâu mới.
Nó có thể được bắt đầu từ đường, nhưng sản phẩm cuối cùng là một hợp chất hoàn toàn khác đường. Cuốn Sweet Deception mô tả sucralose được thực hiện khi xử lý đường bằng trityl chloride, anhydride acetic, hydrogen chlorine, thionyl chloride, và methanol với sự hiện diện của dimethylformamide, 4 -methylmorpholine, toluene, methytl isobutyl ketone, acetic acid, benzyltriethlyammonium chloride và sodium methoxide, làm cho nó không giống như bất cứ thứ gì được tìm thấy trong tự nhiên. Trên các trang web của Splenda và bán sản phẩm Splenda đều có ghi một dòng nhỏ “mặc dù sucralose có cấu trúc và hương vị như đường, nhưng nó không phải là tự nhiên.”
Sucralose là tên gọi đang gây hiểu nhầm. Chữ cuối -ose được sử dụng để đặt tên đường, không phải chất phụ gia. Sucralose được phát âm rất gần giống với đường sucrose, và có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Kết quả là người ta đã đặt một tên khác chính xác hơn cho cấu trúc của sucralose, đó là trichlorogalactosucrose, nhưng FDA đã cho rằng không cần thiết để sử dụng tên này thay cho sucralose vốn đã được cấp phép.
Sự hiện diện của chlorine trong cấu trúc được cho là thành phần nguy hiểm nhất của sucralose. Chlorine được coi là một chất gây ung thư đã được sử dụng trong khí độc, chất khử trùng, thuốc trừ sâu và nhựa. Sự tiêu hóa và hấp thu của sucralose cũng không được rõ ràng do thiếu các nghiên cứu lâu dài trên con người. Phần lớn các nghiên cứu đều được thực hiện trên động vật trong các khoảng thời gian dài ngắn khác nhau. Các triệu chứng bị cáo buộc liên quan đến sucralose là những vấn đề liên quan đên tiêu hóa (đầy hơi, tiêu chảy) dị ứng da, khó thở, ho, đau ngực, cáu ghắt, tâm trạng thất thường, trầm cảm và ngứa mắt…. Cách duy nhất để đảm bảo sự an toàn của sucralose là cần có nghiên cứu dài hạn trên con người.
Splenda là một sản phẩm có chứa chất làm ngọt nhân tạo sucralose trong thành phần. Sucralose không chứa calo, nhưng bởi vì nó ngọt hơn đường 600 lần, do đó chỉ cần một lượng rất nhỏ là đã đạt được vị ngọt mong muốn. Hai thành phần khác trong Splenda là dextrose và maltodextrin, được sử dụng để tăng số lượng carbohydrates có chứa calori. Một cốc Splenda có chứa 96 calories và 32 gram carbohydrate, nhưng thường không được người tiêu dùng chú ý do trên nhãn ghi rằng đây là một chất làm ngọt không chứa calo. Các chất này được tìm thấy trong rất nhiều các sản phẩm và có thể được sử dụng để nấu ăn, người ta vẫn vô tư dùng 1 cốc hoặc nhiều hơn mỗi ngày. Một nghiên cứu gần đây cho thấy rằng Splenda đã gây ảnh hưởng đến sự hấp thu thuốc ở loài chuột. Những con chuột được cho sử dụng sucralose với liều 1,1-11 mg / kg. Sau 12 tuần, người ta đã phát hiện trên những con chuột chỉ còn một nửa lượng vi khuẩn tốt trong đường ruột. Splenda cũng gây cản trở sự hấp thu của thuốc theo toa, nhưng cách duy nhất để biết chắc chắn là nên thực hiện nghiên cứu dài hạn trên con người. Số lượng hạn chế của các nghiên cứu ngắn và dài hạn trên sucralose không đủ để khẳng định điều gì, để bảo đảm an toàn cho chính bản thân mình chúng ta phải đọc những thông tin liên quan để có sự cân nhắc và lựa chọn trước khi sử dụng