Viêm khớp dạng thấp là bệnh tự miễn, sự phản ứng của cơ thể tự bảo vệ một cách bất thường, phản ứng chống lại chính mình.
Bệnh khởi phát tổn thương các khớp cổ tay, khớp bàn ngón, khớp gối. Sau đó gây tổn thương các khớp cột sống cổ, khớp vai, khớp háng, khớp cổ chân. Bệnh thường gặp ở mọi lứa tuổi, nữ mắc bệnh nhiều hơn nam, đặc biệt quanh tuổi tiền mãn kinh.
Trong điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp đã áp dụng các biện pháp châm cứu hoặc dùng thuốc Nam. Tuy nhiên, tại Pháp các nhà thấp khớp học cho rằng, châm cứu các khớp sưng là không chứng minh được hiệu quả của nó trong viêm khớp dạng thấp. Châm cứu không làm thay đổi tiến triển của bệnh, nhưng trong một vài trường hợp có thể góp phần giảm đau. Châm cứu có nguy cơ gây kích ứng tại chỗ ở bệnh nhân da mỏng, ngoài ra có thể lây nhiễm virut của viêm gan B và viêm gan C, HIV do kim châm cứu không được tiệt khuẩn.
Dùng thuốc trong viêm khớp dạng thấp
Quá trình viêm khớp kéo dài càng làm hư tổn sụn khớp. Vì vậy, cần sử dụng ngay thuốc chống viêm giảm đau và điều trị cơ bản cổ điển. Bệnh nhân trong quá trình điều trị thuốc chống viêm giảm đau cần chú ý tránh các tác dụng phụ của thuốc. Đối với dạ dày, thuốc có thể gây viêm loét dạ dày - hành tá tràng, vì vậy cần phối hợp thuốc bảo vệ dạ dày. Đối với tim mạch, cần chú ý tác dụng phụ gây tăng huyết áp... Ngoài đợt tiến triển, bệnh nhân cần tập luyện hoặc điều trị vật lý nhằm tránh teo cơ và cứng khớp.
Viêm khớp dạng thấp là bệnh mạn tính trước đây chủ yếu điều trị triệu chứng, điều trị cơ bản với các thuốc methotrexate, hydroxychloroquin và sulphasalazine... Trong nhiều năm qua, điều trị viêm khớp dạng thấp căn bản tấn công làm ngừng giai đoạn viêm, chưa tác động vào mắt xích của tế bào đích và các cytokine tiền viêm. Nhiều bệnh nhân viêm khớp dạng thấp đáp ứng kém với điều trị cơ bản bằng methotrexate và corticoid. Đối với những bệnh nhân này, lựa chọn điều trị thuốc sinh học là một giải pháp mới.
Khi nào điều trị sinh học?
Sau một thời gian điều trị liên tục đúng phác đồ khuyến cáo của Hội Thấp khớp học Việt Nam, bệnh nhân vẫn còn đáp ứng kém với điều trị cơ bản như thuốc chống viêm giảm đau và điều trị methotrexate. Trước khi điều trị sinh học, bệnh nhân được làm các xét nghiệm loại bỏ các nhiễm khuẩn tiềm tàng và tình trạng suy tim.
Điều trị sinh học nhằm tác động trên cytokine tiền viêm như interleukin - 6, các TNF alpha và tác động trên tế bào lymphocyte T và tế bào lymphocyte B.
Các tế bào lymphocyte B và lymphocyte T trong dịch khớp kết gắn với kháng nguyên, sinh ra các tự kháng thể và cytokine tiền viêm như TNF alpha, interleukine-6, interleukine-1 và dẫn đến viêm màng hoạt dịch gây phá hủy sụn khớp và xương. Trên thế giới, điều trị sinh học infliximab (Remicade), etanercept (Enbrel), được Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) cho phép dùng để điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp và viêm cột sống dính khớp. Bệnh nhân viêm khớp dạng thấp sau khi điều trị với methotrexate mà có sự kháng thuốc hay nói cách khác không đáp ứng với methotrexate, lựa chọn điều trị sinh học là hướng mới cho bệnh nhân viêm khớp dạng thấp thể nặng và không có chống chỉ định với nhóm thuốc sinh học.
Kháng TNF alpha là gì?
Các chế phẩm sinh học kháng TNF alpha được Hội Khớp học Pháp và Hội Khớp học Anh khuyến cáo sử dụng trong điều trị viêm khớp dạng thấp, viêm khớp vẩy nến, viêm cột sống dính khớp vào tháng 12/2005. Có 3 kháng TNF alpha, phân ra 2 loại: kháng thể đơn dòng và thụ thể hòa tan TNF alpha. Kháng TNF alpha được chỉ định ở viêm khớp dạng thấp thể nặng, gồm có infliximab, etanercept, adalimumab. Chống chỉ định sử dụng kháng TNF alpha trong trường hợp phụ nữ có thai, bệnh nhân đang bị nhiễm khuẩn hoặc bệnh nhân viêm khớp do nhiễm khuẩn, bệnh nhân có suy tim sung huyết giai đoạn 3 hoặc 4.
Mỗi loại thuốc kháng TNF alpha có các cơ chế tác động khác nhau làm giảm sản sinh TNF alpha (thalidomide). Trung hòa các TNF alpha bằng các kháng thể đơn dòng (infliximab), các thụ thể hòa tan (etanercept). Ức chế TNF alpha bằng các đối kháng. Cytokine TNF alpha là tác nhân khởi phát quá trình viêm, vì vậy sử dụng kháng TNF alpha có tác dụng nhanh đến tình trạng viêm khớp cho bệnh nhân viêm khớp dạng thấp thể tiến triển nặng và không đáp ứng với thuốc chống viêm và điều trị methotrexate.
Bệnh nhân cần lưu ý
Để có chất lượng sống tốt, người bệnh viêm khớp dạng thấp nên có chế độ thư giãn. Ngoài những đợt bệnh tiến triển, người bệnh nên tham gia các hoạt động. Trong sinh hoạt hằng ngày, luôn chú ý các thao tác tránh lệch trục khớp. Khẩu phần ăn giàu chất calcium và các acid béo omega-6 và omega-3.
Phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ cần ngừng methotrexate 3 tháng và nam giới ngừng methotrexate 5 tháng trước khi nghĩ đến có em bé. Thuốc chống viêm corticoide sử dụng được trong suốt thai kỳ. Thuốc chống viêm không steroide không sử dụng trong những tháng cuối mang thai. Trong quá trình điều trị thuốc sinh học như etanercept, infliximab, adalimumab bệnh nhân muốn có thai phải ngừng điều trị các thuốc sinh học 6 tháng trước khi mang thai.
AloBacsi.
Bệnh khởi phát tổn thương các khớp cổ tay, khớp bàn ngón, khớp gối. Sau đó gây tổn thương các khớp cột sống cổ, khớp vai, khớp háng, khớp cổ chân. Bệnh thường gặp ở mọi lứa tuổi, nữ mắc bệnh nhiều hơn nam, đặc biệt quanh tuổi tiền mãn kinh.
Trong điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp đã áp dụng các biện pháp châm cứu hoặc dùng thuốc Nam. Tuy nhiên, tại Pháp các nhà thấp khớp học cho rằng, châm cứu các khớp sưng là không chứng minh được hiệu quả của nó trong viêm khớp dạng thấp. Châm cứu không làm thay đổi tiến triển của bệnh, nhưng trong một vài trường hợp có thể góp phần giảm đau. Châm cứu có nguy cơ gây kích ứng tại chỗ ở bệnh nhân da mỏng, ngoài ra có thể lây nhiễm virut của viêm gan B và viêm gan C, HIV do kim châm cứu không được tiệt khuẩn.
Dùng thuốc trong viêm khớp dạng thấp
Quá trình viêm khớp kéo dài càng làm hư tổn sụn khớp. Vì vậy, cần sử dụng ngay thuốc chống viêm giảm đau và điều trị cơ bản cổ điển. Bệnh nhân trong quá trình điều trị thuốc chống viêm giảm đau cần chú ý tránh các tác dụng phụ của thuốc. Đối với dạ dày, thuốc có thể gây viêm loét dạ dày - hành tá tràng, vì vậy cần phối hợp thuốc bảo vệ dạ dày. Đối với tim mạch, cần chú ý tác dụng phụ gây tăng huyết áp... Ngoài đợt tiến triển, bệnh nhân cần tập luyện hoặc điều trị vật lý nhằm tránh teo cơ và cứng khớp.
Khi nào điều trị sinh học?
Sau một thời gian điều trị liên tục đúng phác đồ khuyến cáo của Hội Thấp khớp học Việt Nam, bệnh nhân vẫn còn đáp ứng kém với điều trị cơ bản như thuốc chống viêm giảm đau và điều trị methotrexate. Trước khi điều trị sinh học, bệnh nhân được làm các xét nghiệm loại bỏ các nhiễm khuẩn tiềm tàng và tình trạng suy tim.
Điều trị sinh học nhằm tác động trên cytokine tiền viêm như interleukin - 6, các TNF alpha và tác động trên tế bào lymphocyte T và tế bào lymphocyte B.
Các tế bào lymphocyte B và lymphocyte T trong dịch khớp kết gắn với kháng nguyên, sinh ra các tự kháng thể và cytokine tiền viêm như TNF alpha, interleukine-6, interleukine-1 và dẫn đến viêm màng hoạt dịch gây phá hủy sụn khớp và xương. Trên thế giới, điều trị sinh học infliximab (Remicade), etanercept (Enbrel), được Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) cho phép dùng để điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp và viêm cột sống dính khớp. Bệnh nhân viêm khớp dạng thấp sau khi điều trị với methotrexate mà có sự kháng thuốc hay nói cách khác không đáp ứng với methotrexate, lựa chọn điều trị sinh học là hướng mới cho bệnh nhân viêm khớp dạng thấp thể nặng và không có chống chỉ định với nhóm thuốc sinh học.
Kháng TNF alpha là gì?
Các chế phẩm sinh học kháng TNF alpha được Hội Khớp học Pháp và Hội Khớp học Anh khuyến cáo sử dụng trong điều trị viêm khớp dạng thấp, viêm khớp vẩy nến, viêm cột sống dính khớp vào tháng 12/2005. Có 3 kháng TNF alpha, phân ra 2 loại: kháng thể đơn dòng và thụ thể hòa tan TNF alpha. Kháng TNF alpha được chỉ định ở viêm khớp dạng thấp thể nặng, gồm có infliximab, etanercept, adalimumab. Chống chỉ định sử dụng kháng TNF alpha trong trường hợp phụ nữ có thai, bệnh nhân đang bị nhiễm khuẩn hoặc bệnh nhân viêm khớp do nhiễm khuẩn, bệnh nhân có suy tim sung huyết giai đoạn 3 hoặc 4.
Mỗi loại thuốc kháng TNF alpha có các cơ chế tác động khác nhau làm giảm sản sinh TNF alpha (thalidomide). Trung hòa các TNF alpha bằng các kháng thể đơn dòng (infliximab), các thụ thể hòa tan (etanercept). Ức chế TNF alpha bằng các đối kháng. Cytokine TNF alpha là tác nhân khởi phát quá trình viêm, vì vậy sử dụng kháng TNF alpha có tác dụng nhanh đến tình trạng viêm khớp cho bệnh nhân viêm khớp dạng thấp thể tiến triển nặng và không đáp ứng với thuốc chống viêm và điều trị methotrexate.
Bệnh nhân cần lưu ý
Để có chất lượng sống tốt, người bệnh viêm khớp dạng thấp nên có chế độ thư giãn. Ngoài những đợt bệnh tiến triển, người bệnh nên tham gia các hoạt động. Trong sinh hoạt hằng ngày, luôn chú ý các thao tác tránh lệch trục khớp. Khẩu phần ăn giàu chất calcium và các acid béo omega-6 và omega-3.
Phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ cần ngừng methotrexate 3 tháng và nam giới ngừng methotrexate 5 tháng trước khi nghĩ đến có em bé. Thuốc chống viêm corticoide sử dụng được trong suốt thai kỳ. Thuốc chống viêm không steroide không sử dụng trong những tháng cuối mang thai. Trong quá trình điều trị thuốc sinh học như etanercept, infliximab, adalimumab bệnh nhân muốn có thai phải ngừng điều trị các thuốc sinh học 6 tháng trước khi mang thai.
AloBacsi.