Tuyến tiền liệt thường phát triển ở độ tuổi dậy thì, đến khoảng 20-25 tuổi thì bắt đầu ổn định. Tuy nhiên, sau 40 tuổi, tuyến tiền liệt thường có khuynh hướng phát triển bất thường, được gọi là phì đại lành tính tuyến tiền liệt.”
Sự phì đại tuyến tiền liệt (TTL) gây ra một số triệu chứng rối loạn về tiểu tiện. U phì đại lành tính TTL (hay u sơ tiền liệt tuyến) không phải là bệnh lý ác tính, mà là sự phì đại lành tính của TTL.
U xơ TTL có thể phát triển từ trong một thời gian dài mà không gây nên bất kỳ sự nguy hiểm nào. Tuy nhiên vì tuyến bao quanh niệu đạo nên nếu bị phì đại TTL sẽ gây cản trở dòng nước tiểu từ bàng quang ra niệu đạo; làm xuất hiện các triệu chứng rối loạn về tiểu tiện (đái khó, tia nước yếu, đái dắt, đái đêm nhiều lần…). Nếu nặng có thể gây bí đái mãn tính dẫn đến viêm bàng quang, viêm đường tiết niệu, thậm chí suy thận.
Người bệnh thường đến khám khi xuất hiện các chiệu trứng về rối loạn tiểu tiện hoặc bí đái cấp tính.
Biểu hiện của TTL phì đại
Khi TTL phì đại chèn ép vào niệu đạo gây nên những rối loạn tiểu tiện, với 2 hội chứng đặc trưng sau:
Hội chứng tắc nghẽn đường tiểu: Đi tiểu không hết, vẫn có nước tiểu ứ đọng trong bàng quang, phải gắng sức rặn, tiểu ngắt quãng, tia nước tiểu yếu, thậm chí không thành tia, đái chỉ nhỏ rọt hoặc đái bị tắc xong lại đái tiếp, đi tiểu rất lâu… và nặng hơn có thể bị bí đái hoàn toàn.
Hội chứng kích thích: luôn luôn có cảm giác rất mói đai, đái không hết, dễ bị đái són, có nhu cầu đi tiểu nhiều lần trong ngày và đêm.
Điều trị và theo dõi
Không phải tất cả các bệnh nhân u xơ tuyến tiền liệt đều phải điều trị. Những người không bị ảnh hưởng nhiều bởi các triệu chứng u xơ TLT thường không phải điều trị nhưng nên kiểm tra định kỳ để xem tình trạng bệnh có trở nên xấu đi hay không mà xử trí kịp thời. Lựa chọn phương pháp điều trị như thế nào tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhưng chủ yếu là dự vào các dấu hiệu lâm sàng (mức độ ảnh hưởng đến tiểu tiện).
Điều trị bằng ngoại khoa hầu như là để giảm triệu chứng. Hiện nay phổ biến nhất là phương pháp cắt bỏ TLT bằng nội soi qua đường niệu đạo. Khi TLT quá to, không sử dụng được phương pháp cắt nội soi thì phải mổ bỏ u xơ TLT.
Ngoài ra các biện pháp khác nhằm hỗ trợ điều trị như: ngâm nước ấm toàn bộ vùng chậu, hông kết hợp xoa bóp phía ngoài hằng ngày. Uống đầy đủ nước, nhất là mùa hè (ưu tiên uống ban ngày), sau 19 giờ nên hạn chế uống nước hoặc ăn các loại đồ ăn nhiều nước (dễ gây đi tiểu nhiều về đêm, làm mất giấc ngủ, ảnh hưởng đến sức khỏe).
Sự phì đại tuyến tiền liệt (TTL) gây ra một số triệu chứng rối loạn về tiểu tiện. U phì đại lành tính TTL (hay u sơ tiền liệt tuyến) không phải là bệnh lý ác tính, mà là sự phì đại lành tính của TTL.
U xơ TTL có thể phát triển từ trong một thời gian dài mà không gây nên bất kỳ sự nguy hiểm nào. Tuy nhiên vì tuyến bao quanh niệu đạo nên nếu bị phì đại TTL sẽ gây cản trở dòng nước tiểu từ bàng quang ra niệu đạo; làm xuất hiện các triệu chứng rối loạn về tiểu tiện (đái khó, tia nước yếu, đái dắt, đái đêm nhiều lần…). Nếu nặng có thể gây bí đái mãn tính dẫn đến viêm bàng quang, viêm đường tiết niệu, thậm chí suy thận.
Người bệnh thường đến khám khi xuất hiện các chiệu trứng về rối loạn tiểu tiện hoặc bí đái cấp tính.
Biểu hiện của TTL phì đại
Khi TTL phì đại chèn ép vào niệu đạo gây nên những rối loạn tiểu tiện, với 2 hội chứng đặc trưng sau:
Hội chứng tắc nghẽn đường tiểu: Đi tiểu không hết, vẫn có nước tiểu ứ đọng trong bàng quang, phải gắng sức rặn, tiểu ngắt quãng, tia nước tiểu yếu, thậm chí không thành tia, đái chỉ nhỏ rọt hoặc đái bị tắc xong lại đái tiếp, đi tiểu rất lâu… và nặng hơn có thể bị bí đái hoàn toàn.
Hội chứng kích thích: luôn luôn có cảm giác rất mói đai, đái không hết, dễ bị đái són, có nhu cầu đi tiểu nhiều lần trong ngày và đêm.
Điều trị và theo dõi
Không phải tất cả các bệnh nhân u xơ tuyến tiền liệt đều phải điều trị. Những người không bị ảnh hưởng nhiều bởi các triệu chứng u xơ TLT thường không phải điều trị nhưng nên kiểm tra định kỳ để xem tình trạng bệnh có trở nên xấu đi hay không mà xử trí kịp thời. Lựa chọn phương pháp điều trị như thế nào tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhưng chủ yếu là dự vào các dấu hiệu lâm sàng (mức độ ảnh hưởng đến tiểu tiện).
Điều trị bằng ngoại khoa hầu như là để giảm triệu chứng. Hiện nay phổ biến nhất là phương pháp cắt bỏ TLT bằng nội soi qua đường niệu đạo. Khi TLT quá to, không sử dụng được phương pháp cắt nội soi thì phải mổ bỏ u xơ TLT.
Ngoài ra các biện pháp khác nhằm hỗ trợ điều trị như: ngâm nước ấm toàn bộ vùng chậu, hông kết hợp xoa bóp phía ngoài hằng ngày. Uống đầy đủ nước, nhất là mùa hè (ưu tiên uống ban ngày), sau 19 giờ nên hạn chế uống nước hoặc ăn các loại đồ ăn nhiều nước (dễ gây đi tiểu nhiều về đêm, làm mất giấc ngủ, ảnh hưởng đến sức khỏe).