Tìm hiểu về bệnh Sỏi Thận


trisoithan

New Member
15
0
1
Xu
0
Phần I
Sỏi thận
còn được gọi là sạn thận, là do kết quả của sự kết tủa của một số chất chứa trong nước tiểu. Những sỏi này thành lập trong thận và sau đó lưu chuyển qua niệu quản (ureter) xuống bàng quang. Nếu nhỏ nó có thể thoát ra với nước tiểu. Trong trường hợp sỏi lớn không thể đi qua được niệu quản nên nó cứ nằm trong niệu quản, gây nghẽn niệu quản và làm cản trở dòng nước tiểu đi xuống bàng quang làm bệnh nhân lên cơn đau. Có nhiều yếu tố gây sỏi thận như nhiễm độc, vài loại ẩm thực, thuốc và những điều kiện làm tăng hàm lượng canxi hay những chất khác như oxalat và axit uric trong nước tiểu. Loại sỏi thận thường thấy nhất là loại sỏi thận chứa canxi.

Dịch tễ học (Epidemiology)

Đối với đàn ông, giai đoạn đầu cơn đau sỏi thận thường xảy ra giữa tuổi 30 và 60. Tỷ lệ mắc bệnh cho đàn ông chưa từng mắc bệnh sỏi thận bao giờ là từ 3 tới 4 trường hợp cho 1000 người trong một năm giữa tuổi 30 và 60 và giảm dần với tuổi. Đối với đàn bà tỷ lệ cao nhất giữa tuổi 20 và 30 (khoảng 2 cho 1000 người mỗi năm) và giảm xuống 1 cho 1000 đàn bà trong một năm cho 10 năm sau.
Những cuộc nghiên cứu mới đây thông báo sự mắc bệnh sạn tận tái hồi từ 30% – 50% trong 5 năm. Tỷ lệ bệnh tái phát đối với đàn ông được báo cáo là 3 lần cao hơn đối với đàn bà. Tuy nhiên, những sự kiện lấy từ những nghiên cứu có kiểm soát ngẫu nhiên cho thấy tỷ lệ tái phát bệnh thấp hơn, từ 2 cho 100 người một năm cho tới 5 cho 100 người một năm.

Bệnh sinh học (Pathophysiology)

Có nhiều loại sỏi thận. Khoảng 83% sỏi của đàn ông và 70% sỏi của đàn bà có chứa canxi, dưới hình thức canxi oxalat. Nói chung, bệnh nhiễm trùng đường tiểu hay những bệnh cơ quan như bệnh cường tuyến cận giáp (hyperparathyroidism) thường gây nên dưới 10% sỏi thận cho đàn ông và 25% sỏi thận cho đàn bà. Các loại sạn khác như cystin, uric và struvite thường ít thấy hơn. Tuy nhiên, chúng cần được chú trọng vì sự bệnh có thể tái phát .
Một sỏi thận sẽ được kết tụ khi nồng độ những chất kết hợp thành cao hơn độ tan biến của chúng. Nguyên nhân kết hợp sạn thận thay đổi với tùy loại sạn. Sỏi cystin chỉ tạo thành ở những người mắc chứng rối loạn liệt gen thể nhiễm sắc định hình (autosomal recessive disorder), có cystin trong nước tiểu. Sỏi axit uric kết tụ ở những người có nước tiểu axit, có hay không có bệnh trong nước tiểu có axit uric. Sỏi struvite chỉ kết tụ khi bị nhiễm trùng niếu quản phần trên do vi-trùng sản xuất urease. Sỏi đôi khi kết hợp do sự kết tủa của những thuốc như acyclovir và indinavir.
Sỏi có chứa đựng canxi có nhiều nguyên nhân. Sỏi chứa canxi phosphat xảy ra khi có nhiều canxi trong nước tiểu, có ít citrat trong nước tiểu và nước tiểu kiềm. Sỏi loại này thường là kết quả của những bệnh như bệnh ống thận quá acid và bệnh cường tuyến cận giáp. Sỏi canxi oxalat kết hợp khi nồng độ canxi, oxalat, hay axit uric tăng lên và citrat trong nước tiểu giảm xuống.

Yếu-tố gây bệnh

Sự kết hợp sỏi thận tùy thuộc nhiều yếu tố: nước tiểu, ẩm thực, yếu tố di truyền cũng như sự hiện diện của những bệnh khác. Nồng độ, chứ không phải chỉ số lượng tổng quát những yếu tố trong nước tiểu là những xác định then chốt cho sự kết hợp sạn thận. Ý nghĩa của nồng độ nhấn mạnh tới sự quan trọng của số lượng chất lỏng được uống và của khối lượng nước tiểu. Tuy nhiên, sự thành lập sỏi không thể ước đoán được bằng thành phần nước tiểu không thôi. Một số yếu tố ẩm thực liên quan tới nguy cơ thấp mắc sạn thận gồm có dùng nhiều canxi, kali, phytate và dùng ít protein thực vật, natri và sucrose. Ngoại trừ ẩm thực, những yếu tố toàn thân (systemic factors) như chỉ số khối lượng thân hình (body mass index) cao (đặc biệt cho đàn bà) bệnh thống phong (gout) và bệnh cường tuyến cận giáp cũng có ảnh hưởng.

Triệu chứng

Tùy theo kích thước của sỏi thận, vị trí của cục sỏi trong niệu quản hoặc là nó có liên quan đến nhiễm trùng thận hay không, những triệu chứng có thể khác biệt như đau lưng hay bên hông, có máu trong nước tiểu, ói mửa, nóng sốt, đi tiểu thường xuyên hay có cảm giác cần đi tiểu ngay, và thấy đau khi tiểu tiện.
Theo: trisoithan.vn
 

trisoithan

New Member
15
0
1
Xu
0
Phần II
Khám bệnh và thử nghiệm
0
Sự phát bệnh điển hình là lên cơn đau sóc hông bất thình lình đau dữ dội đến phải đưa bệnh nhân tới phòng cấp cứu. Nó thường đi đôi với nôn mửa. Cơn đau thường chạy tới những điểm khác biệt tùy theo vị trí của sỏi: khi sỏi nằm ở trên niệu quản cao, cơn đau chạy vào bụng, khi sỏi nằm ở niệu quản thấp, cơn đau chạy xuống dịch hoàn cùng bên (ipsilateral testicle)

cho đàn ông, hay môi âm hộ cùng một bên (ipsilateral labium) cho đàn bà, nếu sỏi nằm ở nơi tiếp dẫn giữa niệu quản và bàng quang, triệu-chứng chính là mắc tiểu và đi tiểu nhiều lần. Một cách phát bệnh hiếm hơn là có máu trong nước tiểu mà không đau.

Mặc dù việc khám bệnh không đủ để định bệnh nhưng nó cũng giúp cho sự chẩn đoán. Người bệnh thường bị đau một cách rõ rệt và không thể tìm được dù xoay trở đủ cách một vị trí làm giảm được cơn đau. Có thể có đau nhức nơi góc sườn và cột xống (costo-vertebral angle tenderness) cùng một bên và trong trường hợp bị tắc niệu quản, có thể có dấu hiệu và triệu chứng nhiễm trùng.

Thử nghiệm hóa sinh trong máu bình thường, nhưng gia tăng bạch cầu thường được nhận thấy do nhiễm trùng hay áp trạng (stress). Thử nghiệm nước tiểu cho thấy có bạch cầu và hồng cầu và đôi khi tinh thể. Nếu niệu quản bị tắc nghẹn hoàn toàn do sạn, ta sẽ không thấy hồng cầu vì không có nước tiểu chảy xuống từ niệu quản vào bọng đái. Trên phương diện lâm sàng, những bệnh nhân khi mắc bệnh sỏi thận không triệu chứng thườùng có hồng cầu trong nước tiểu.

Nên chọn lựa phương pháp chụp quang tuyến cắt lớp dạng xoắn (Helical CT) vì sự mẫn cảm, khả năng cho thấy sạn uric acid (được coi như trong-radiolucent- trên phim quang tuyến) và không cần dùng chất tương phản quang tuyến. Có rất ít dữ kiện để so sánh CT và siêu-âm, nhưng trong trường hợp đau sỏi cấp tính, sự mẫn cảm của CT là 96% so với 61% cho siêu âm. Chuyên biệt cho cả hai phương pháp là 100%. CT thường cho thấy sỏi trong niệu quản hay sỏi đã đi qua (ứ nước trong thận- hydronephrosis-) trong khi phim x-quang thường có thể không phát giác được sỏi trong niệu quản hay thận ngay cả khi cản được tia-x và không thể cho thấy có tắc nghẹn niệu quản.

Để tìm những sạn vụn còn lại sau khi dùng phẫu thuật phá sỏi ngoài thận (nephrostolithotomy), thì CT mẫn cảm hơn phim QT chụp thận, niệu quản và bàng quang (KUB: Kidney Ureter Bladder) – 100% so với 46%- nhưng kém đặc biệt- 62% so với 82 %-. Siêu âm có điểm lợi là cho thấy thận và niệu quản ở gần (proximal ureter) và như vậy sỏi trong niệu quản thường không thấy được. Một cuộc nghiên cứu phục hồi so sánh 123 lần khám với siêu âm so với CT cho thấy sự mẫn cảm của siêu âm là 24% và sự chuyên biệt là 90%, siêu âm có thể không cho thấy những sạn nhỏ hơn 3 mm.

Định bệnh phân biệt

Bệnh sỏi thận thường hay xảy ra vì vậy sự hiện diện của sỏi không cho phép định bệnh một cách rõ rệt khi bệnh nhân lên cơn đau bụng hay đau vùng hông. Ngoài ra sạn thận có thể giống một số bệnh cấp tính khác. Sỏi nằm trong niệu quản bên mặt nơi giáp thận bắt chước giống như viêm túi mật cấp tính (cholecyscitis), sỏi nằm phía dưới niệu quản bên mặt giống như viêm ruột dư (appendicitis), sỏi nằm nơi tiếp giáp niệu quản và bàng quang giống như viêm bọng đái (acute cyscitis), sỏi nằm phía dưới niệu quản bên trái giống như viêm bọc túi ruột già (divertivulitis). Một sỏi làm tắc nghẹn niệu quản và nhiễm trùng phía dưới có thể giống viêm thận. Ngoài ra còn những cơn đau do bắp thịt và xương, bệnh zona (herpes zoster), viêm túi mật cấp tính, loét tá tràng, viêm ruột dư, viêm bọc túi ruột già, viêm thận, phình đại động mạch bụng, những bệnh phụ nữ, nghẹt niệu quản do máu đóng cục và teo niệu quản.
 


Các thông tin trên trang web này chỉ mang tính chất tham khảo. Chúng tôi không chịu trách nhiệm nào do việc áp dụng các thông tin trên trang web này gây ra.

Mua bán thuốc Mg Tan INJ | Thuốc Rodogyl