Làm thế nào để phát hiện xơ vữa động mạch, dấu hiệu của bệnh là gì?… là các thắc mắc thường gặp ở người có nguy cơ mắc bệnh. Cùng tham khảo một số giải đáp sau để biết thêm về bệnh.
Khó thở, đau tim, làm việc nặng nhịp tim nhanh có phải là dấu hiệu của bệnh xơ vữa động mạch?
Câu hỏi bởi: Lê Văn Cường
Chào bác sĩ.
Cháu thường có triệu chứng khó thở, đau tim, làm việc nặng nhịp tim nhanh. Cháu có đi khám ở bệnh viện Đa khoa Bắc Giang nhưng không ra. Liệu cháu có bị bệnh xơ vữa động mạch không?
Cảm ơn bác sĩ.
Bác sĩ Nguyễn Thị Thúy
Chào cháu.
Xơ vữa động mạch là sự phối hợp các hiện tượng thay đổi lớp nội mạc của các động mạch lớn và vừa, bao gồm sự hình thành tại chỗ các chất lipid, các phức bộ glucid, máu và các sản phẩm của máu, mô xơ và cặn lắng acid. Tất cả các yếu tố này kèm theo sẽ làm thay đổi ở lớp trung mạc. Nguyên nhân chủ yếu là sự lắng đọng mỡ và các màng tế bào tại lớp bao trong thành động mạch gọi là mảng vữa. Bệnh xơ vữa động mạch thường không có biểu hiện cho đến khi mảng xơ vữa gây hẹp nặng hoặc tắc hoàn toàn một nhánh động mạch. Do vậy, nhiều bệnh nhân không biết mình có bệnh cho đến khi bị một tình trạng cấp cứu như nhồi máu cơ tim hoặc tai biến mạch máu não.
Vữa xơ động mạch thường chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn tiềm tàng: chưa có triệu chứng lâm sàng.
Giai đoạn lâm sàng: có các biểu hiện thiếu máu cơ quan điển hình.
Giai đoạn biến chứng các cơ quan do sự thiếu máu cục bộ gây ra.
Triệu chứng thường phụ thuộc vào các cơ quan bị tổn thương như:
Xơ vữa động mạch chủ: hay gặp theo thứ tự là gốc động mạch chủ, động mạch ngực, động mạch chủ bụng nhất là nơi phân chia động mạch chậu: triệu chứng là hở van động mạch chủ hay hẹp động mạch chủ hoặc phối hợp.
Xơ vữa động mạch não: triệu chứng sớm là tình trạng thiếu máu với ù tai, rối loạn trí nhớ, mau quên; về sau lú lẫn, không tập trung được, mất ngủ. Biến chứng nặng nề là tắc mạch máu não gây liệt nửa thân, rối loạn ngôn ngữ, rối loạn ý thức hay xấu hơn là hôn mê.
Xơ vữa động mạch vành: động mạch vành là động mạch đưa máu giàu oxy đến nuôi tim. Triệu chứng của xơ vữa động mạch vành thường gặp là cơn đau thắt ngực, với tình trạng đau hoặc khó chịu vùng ngực do cơ tim không được máu cung cấp đủ oxy. Đau có thể lan bả vai, cánh tay, cổ, hàm hoặc sau lưng. Đau tăng lên khi hoạt động, giảm khi nghỉ ngơi. Căng thẳng tinh thần cũng có thể khởi phát cơn đau. Những biểu hiện khác bao gồm khó thở, tim đập không đều.
Xơ vữa động mạch thận: động mạch thận cung cấp máu giàu oxi cho hai thận. Khi có mảng xơ vữa ở động mạch sẽ gây bệnh thận mãn, lâu ngày làm chức năng thận suy giảm. Ở giai đoạn sớm của bệnh thận thường không có biểu hiện hay dấu hiệu gì. Khi bệnh nặng lên, có thể gây: tiểu ít hoặc tiểu nhiều (đặc biệt là tiểu nhiều về đêm), ăn không ngon, buồn nôn. phù mặt, tay, chân. xơ vữa động mạch chi dưới: tổn thương gặp hầu hết các động mạch trừ động mạch mu bàn chân ít gặp. Triệu chứng thiếu máu chi thường gặp với tê, lạnh hai chân, cơn đau cách hồi, không bắt mạch được bên tắc mạch. Biến chứng về sau có thể gây hoại tử.
Còn hiện tượng nặng ngực, khó thở, đau tim có thể do các lí do sau:
1. Khó thở do phổi:
Hẹp đường hô hấp: khó thở thì hít vào thường do hẹp phế quản, dị vật trong phế quản, chèn ép trung thất hoặc khó thở khi thở ra thì thường do hen phế quản, giãn phế nang.
Khó thở do tổn thương nhu mô phổi: loại này thường kèm theo tăng tần số thở, lúc nghỉ ngơi ít xuất hiện, nhưng khi gắng sức thường khó thở hơn đó là các bệnh như viêm phế quản co thắt, viêm phổi cấp, lao phổi, hoặc ứ huyết phổi trong các bệnh tim mạch như hẹp hở hai lá, suy tim…
2. Khó thở, nặng ngực do lí do thần kinh:
Yếu tố tâm lý: hay gặp ở một số người hay lo âu, hồi hộp có kèm với khó thở. Thường gặp ở phụ nữ có rối loạn thần kinh chức năng. Khám không tìm thấy tổn thương nào ở phổi cũng như không tìm thấy khó thở do lí do chuyển hoá.
Khó thở do lí do thực thể ở thần kinh như: bệnh bại liệt, bệnh nhược cơ. Lúc đầu là khó thở do gắng sức sau khó thở cả khi nghỉ ngơi và khó thở liên tục.
3. Khó thở do thiếu máu: khó thở thường nhẹ, ít khi dẫn đến khó thở khi nằm nhưng thường xuất hiện khi gắng sức do lượng hồng cầu giảm làm oxy không đủ cung cấp cho nhu cầu của cơ thể.
4. Khó thở, đau tim có thể là biểu hiện của suy tim do giảm khả năng giãn nở của cơ tim làm tăng áp lực máu quanh phổi.
Với triệu chứng bệnh của cháu như khó thở, đau tim, làm việc nặng nhịp tim nhanh thì có rất nhiều lí do. Do cháu đã khám ở Bệnh viện Đa khoa Bắc Giang nhưng không tìm ra bệnh, cháu có thể xuống các bệnh viện Trung ương tại Hà Nội và làm các xét nghiệm cần thiết để tìm ra bệnh của cháu và được chữa trị kịp thời.
Chúc cháu mau khỏe!
Các biện pháp nào để xác định bị bệnh động mạch vành?
Câu hỏi bởi: thanhdung
Chào bác sĩ.
Người thân của tôi dạo này sức khỏe kém, bị đau tim đã lâu. Chẩn đoán bị bệnh động mạch vành. Bác sĩ cho tôi hỏi: Các biện pháp nào để xác định bị bệnh động mạch vành như thế nào ạ?
Cảm ơn bác sĩ.
Bác sĩ Vũ Thị Tuyết Mai
Chào bạn.
Với bệnh nhân có bệnh động mạch vành, biểu hiện đầu tiên thường là cơn đau thắt ngực. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân không đau ngực hoặc cơn đau không điển hình. Nếu nghi ngờ người bệnh có bệnh mạch vành, bác sĩ có thể yêu cầu làm một số thăm dò để xác định bệnh. Điện tâm đồ: Điện tâm đồ là biện pháp đơn giản nhất để tìm các dấu hiệu của bệnh mạch vành. Điện tâm đồ có thể có các triệu chứng thiếu máu cơ tim hay hoại tử cơ tim, các biến chứng của bệnh mạch vành như dày thành tim, giãn buồng tim rối loạn nhịp tim. Điện tâm đồ là một thăm dò không chảy máu, đơn giản, ít tốn kém, có thể tiến hành trong vòng 5 phút. Tuy nhiên, có khá nhiều tình huống có bệnh mạch vành mà điện tâm đồ lại không biến đổi. Ngược lại, điện tâm đồ có thể biến đổi trong khi bạn lại không có bệnh mạch vành (tình huống nữ giới, bệnh nhân béo phì, tăng huyết áp). Lưu giữ các điện tâm đồ cũ để so sánh và xác định những biến đổi mới cho phép nâng cao khả năng phát hiện bệnh mạch vành.
Siêu âm tim: Siêu âm tim đánh giá vận động các thành tim. Nếu bạn có bệnh động mạch vành, vùng cơ tim được cấp máu bởi nhánh mạch vành đó sẽ không được cấp đủ oxy. Vùng cơ tim đó sẽ có hiện tượng rối loạn vận động so với các vùng khác (có thể giảm vận động hoặc hoàn toàn không vận động). Siêu âm tim cũng là một thăm dò không chảy máu, tuy nhiên đòi hỏi phương tiện hiện đại (máy siêu âm) cũng như bác sĩ được đào tạo chuyên khoa.
Mặt khác, siêu âm tim thường chỉ phát hiện được bệnh mạch vành ở giai đoạn muộn khi bệnh đã gây ra các rối loạn vận động buồng tim. Nghiệm pháp gắng sức: Nghiệm pháp gắng sức là biện pháp kinh điển để chẩn đoán bệnh mạch vành. Như chúng ta đã biết, khi nghỉ ngơi thì động mạch vành dù bị hẹp vẫn đủ khả năng đáp ứng nhu cầu oxy của cơ thể. Khi phải gắng sức, nhu cầu oxy cơ thể tăng lên, và khi đó mới lộ ra các dấu hiệu thiếu máu cơ tim. Thầy thuốc có thể yêu cầu người bệnh chạy trên thảm chạy, hoặc đạp xe tại chỗ với tốc độ tăng dần, hoặc họ sẽ truyền thuốc cho người bệnh để gây tình trạng gắng sức thực nghiệm…
Tình trạng thiếu máu cơ tim khi gắng sức sẽ được ghi nhận và đánh giá bằng một số biện pháp như điện tâm đồ gắng sức, siêu âm tim gắng sức, hoặc xạ hình cơ tim gắng sức. Qua đó, thầy thuốc đánh giá người bệnh có khả năng bị bệnh mạch vành hay không và mức độ như thế nào. Thăm dò chẩn đoán hình ảnh: Các thăm dò chẩn đoán hình ảnh, như chụp cắt lớp vi tính đa dãy động mạch vành, chụp cộng hưởng từ tim, chụp phóng xạ tưới máu cơ tim ngày càng được ứng dụng rộng rãi để chẩn đoán sớm động mạch vành. Chụp cắt lớp vi tính đa dãy mạch vành đã khá phổ biến ở các trung tâm tim mạch lớn trong nước. Phim chụp sẽ cung cấp hình ảnh giải phẫu của mạch vành, cho biết mức độ vôi hóa mạch vành, nhánh mạch vành bị hẹp, mức độ hẹp, cũng như các bất thường giải phẫu khác. Thông tim và chụp động mạch vành: Thông tim và chụp động mạch vành là biện pháp hiện đại nhất để chẩn đoán bệnh mạch vành.
Thủ thuật này được tiến hành trong phòng tim mạch can thiệp với các thiết bị chụp mạch và màn huỳnh quang tăng sáng hiện đại. Qua đường động mạch quay hoặc động mạch đùi, bác sĩ sẽ đưa một ống thông lên tim của bạn vào nhánh động mạch vành. Qua ống thông đó bác sĩ sẽ tiêm một dung dịch đặc biệt là chất cản quang vào động mạch vành của bạn. Chất cản quang cho phép bác sĩ nhìn thấy hình dạng, kích thước mạch vành trên màn huỳnh quang, đánh giá vị trí hẹp và mức độ hẹp mạch vành. Chụp động mạch vành qua da là một biện pháp thăm dò chảy máu, tuy nhiên hoàn toàn không đau đớn (không cần gây mê, chỉ cần gây tê tại chỗ) và rất hiếm gặp biến chứng. Tuy nhiên, tất cả các biện pháp để xác định bệnh mạch vành đã nêu chỉ có thể đánh giá được bệnh lý mạch vành tại thời điểm thăm khám trong khi bệnh mạch vành là bệnh lý tiến triển liên tục theo thời gian, do vậy bạn cần lưu ý đi khám định kỳ, áp dụng các biện pháp phòng bệnh để kiểm soát các yếu tố nguy cơ của bệnh mạch vành và giải đáp bác sĩ chuyên khoa Tim mạch bất cứ khi nào có các triệu chứng nghi ngờ bệnh mạch vành.
Chúc bạn mạnh khỏe.
Khó thở, hít thở không sâu và thỉnh thoảng có dấu hiệu tức ngực là bệnh gì?
Câu hỏi bởi: Giấu tên
Chào bác sĩ!
Em tên là Trung hiện tại em đang bị triệu trứng khó thở, hít thở không sâu và thỉnh thoảng có dấu hiệu tức ngực, hiện tại em bị tình trạng này kéo dài 1 tháng rồi, tình trạng này cho em cảm giác mệt mỏi và lo lắng, em có cảm giác bị đầy ở cổ hít thở vào như có vật gì chẹn ở vùng giữa ngực và thóp cổ, vậy em gửi thông tin này mọng nhận được sự giải đáp tận tình của các bác sĩ.
Em xin cảm ơn!
Bác sĩ Nguyễn Văn An
Chào bạn!
Triệu chứng khó thở, tức ngực là triệu chứng của rất nhiều bệnh lý nhất là bệnh lý của hệ Tim mạch và hệ Hô hấp.
Một số bệnh tim mạch thường gặp như: co thắt mạch vành, hẹp mạch vành,… Mạch vành là mạch chịu trách nhiệm cung cấp máu và nuôi dưỡng cho cơ tim, đảm bảo sự hoạt động bình thường của tim. Khi mạch vành bị hẹp có thể do bị co thắt hay do xơ vữa sẽ làm giảm lưu lượng tưới máu cho tim nên gây ra các biểu hiện đau thắt ngực, khó thở. Điều trị bằng thuốc giãn mạch vành đối với bệnh co thắt mạch vành và nong mạch vành đặt stent nếu mạch vành hẹp từ 70% trở lên kết hợp với chữa trị rối loạn lipid máu.
Các bệnh viêm nhiễm mãn tính của đường hô hấp cũng gây nên biểu hiện khó thở và đau tức ngực. Một số bệnh thường gặp như: viêm phế quản mãn tính, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, hen phế quản,… Các viêm nhiễm cấp tính biểu hiện thường rầm rộ hơn, ngoài biểu hiện khó thở tức ngực còn có ho, sốt, ho nhiều đờm,…
Ngoài ra thiếu máu cũng có thể dẫn đến tình trạng tức ngực, mệt mỏi, khó thở. Bởi vì khi bị thiếu máu cơ thể không được cung cấp đủ nhu cầu oxy và chất dinh dưỡng cho các hoạt động và làm việc bình thường dẫn tới các triệu chứng hoa mắt, chóng mặt, người luôn trong trạng thái mệt mỏi, thiếu máu nên không đủ cung lượng tim cho quá trình tuần hoàn, không đủ lưu lượng cung cấp cho mạch vành nuôi dưỡng tim nên người bệnh có thể có triệu chứng bị đau tức ngực.
Bạn nên đi khám Nội khoa sớm để được tìm nguyên nhân chính xác và có hướng chữa trị hiệu quả.
Chúc bạn sớm khỏi bệnh!
Đau nhói ở vị trí ngực trái, choáng nhẹ, mặt đỏ là bệnh gì?
Câu hỏi bởi: Chiêu
Em năm nay 21 tuổi, giới tính nam. Gần đây em hay có biểu hiện đau thắt ở vị trí ngực trái, em cảm nhận được đó là trên tim, khi thở mạnh có phần đau thắt hơn. Khoảng vài năm trước cơn đau thắt chỉ kéo dài chừng vài giây đến 1 phút thì dừng đau hẳn, thường thì tình trạng này xuất hiện lại rất lâu không theo bất cứ chu kì nào. Nhưng gần đây tình trạng này hay xảy ra cách nhau khoảng 4, 6 tuần em cảm thấy tim mình đập có phần nhanh hơn giống như khi hồi hợp vậy. Những cơn đau thắt khoảng vài giây, rồi vài phút xuất hiện. Dạo này em còn xuất hiện tình trạng choáng nhẹ hay đỏ bừng trên mặt. Em không biết tình trạng bệnh lý của mình như thế nào. Em mong Bác sĩ giải đáp cũng như giúp em chữa trị một cách hiệu quả.
Bác sĩ Nguyễn Vũ Cẩm Tú
Chào em.
Đau ngực là một biểu hiện có thể do nhiều bệnh mang lại, nhưng quan trọng nhất đối với các thầy thuốc và người bệnh là phân biệt đau ngực có phải do bệnh mạch vành hay không, vì việc chữa trị, cách phòng bệnh, tiên lượng hoàn toàn khác.
Đau thắt ngực gọi là “ đau thắt”, nhưng trong thực tế, phần lớn người bệnh chỉ thấy tức, nặng, chèn ép ở ngực, ít khi đau thực sự. Vị trí đau phần nhiều ở giữa ngực, sau xương ức, đôi khi ở ngực trái hoặc ngực phải, có khi đau lan lên trên (xương đòn, vai, hàm), có khi đau dọc cánh tay đến tận ngón tay). Điểm đặc trưng của đau thắt ngực là xuất hiện khi gắng sức thể lực, như đi nhanh, chạy, leo dốc, lên thang gác, vác nặng. Cũng có lúc đau khi ăn quá no, ra lạnh, hoặc xúc động (tức giận, sợ hãi …). Nghe tim, đo huyết áp, khám thực thể không có gì đặc biệt. Đau thắt ngực thường rất ngắn, từ 1 đến 10 phút, ít khi quá 15 phút.
Cách chấm dứt cơn đau rất đơn giản: nhiều khi chỉ cần ngừng gắng sức là đủ. Nếu đau nhiều, thì thầy thuốc chuyên kha cho người bệnh ngậm lâu dưới lưỡi một viên nitroglycerin 0,5mg cho tan trong miệng (đừng nuốt), chỉ vài phút sau là hết đau. Sau 15 phút, nếu còn đau thì thêm một viên thứ 2 rồi có thể viên thứ 3. Nếu không đỡ, nên gửi lên tuyến trên.
Bệnh này do động mạch vành bị hẹp, chủ yếu là hẹp do vữa xơ, hay gặp ở người đứng tuổi, nam nhiều hơn nữ. Dưới 40 tuổi, bệnh rất hiếm. Một số bệnh tim khác không phải vữa xơ động mạch vành cũng có thể gây những cơn giống đau thắt ngực và cũng xuất hiện, kho gắng sức như hẹp van chủ, hở van chủ, bệnh cơ tim phì đại. Nhồi máu cơ tim. Đau cũng ở giữa ngực, nhưng dữ dội hơn nhiều, có cảm giác sợ hãi, có khi kêu la, vã mồ hôi, tụt huyết áp. Đau kéo dài hơn đau thắt ngực, mặc dầu đã nằm nghỉ và ngậm nitronglycerin. Khám thực thể không có gì đặc biệt. Nếu đau quá 30 phút, cần nghĩ là đã nhồi máu cơ tim. Là bệnh rất nặng, tử vong rất cao (khoảng 25-30%), cần phải đến viện ngay, trì hoãn có thể nguy đến tính mạng. Nếu đau quá có thể tiêm một ống morphin dưới da trước khi chuyển.
Bệnh viêm màng ngoài tim, tràn dịch màng ngoài tim. Đau cũng ở ngực, nhưng kéo dài cả ngày, chứ không liên quan đến gắng sức. Nhiều khi đau tăng lên khi ho, thở sâu, nuốt. Ngoài ra, người bệnh còn sốt, khó thở, phải ngồi dậy mới dễ chịu. Chẩn đoán phải căn cứ vào nghe tim, điện tâm đồ, X quang, chọc dò màng tim v.v… Điều trị tùy vào lí do để có hướng điều trị khác nhau:
+ Nếu dịch vàng chanh, nên nghĩ đến lao hoặc virus.
+ Dịch mủ là viêm nhiễm khuẩn, cần phải gửi lên tuyền trên để tháo mủ và cho kháng sinh liều cao.
+ Nếu dịch máu thường khó nhận định, lí do ung thư rất hiếm, vẫn cứ nên chữa như lao, trong khi chờ đợi các xét nghiệm khác.
+ Nếu đau nhiều có thể thêm các thuốc giảm đau như paracetamol, aspirin.
Bệnh phình tắc động mạch chủ: Rất hiếm, đau cũng đột ngôt, dữ dội, kéo dài và xảy ra ở người đứng tuổi; lúc đầu, đau theo nhịp đập của tim, cho nên dễ nhầm với nhồi máu cơ tim. Cho thuốc giảm đau liều cao và gửi ngay đến trung tâm phẫu thuật. Các bệnh hô hấp Bằng khám lâm sàng hoặc X quang, đa số có thể chẩn đoán được:
– Viêm màng phổi, dù lí do gì, cũng gây đau ngưc. Đau kéo dài, đau liên quan với nhịp thở, hoặc kèm sốt và ho.
– Điều trị tùy lí do lao hoặc vi khuẩn khác.
– Tràn khí màng phổi: đau đột ngột, khó thở (nghe phổi: mất rì rào phế nang, gõ vang). Phải hút khí bằng kim.
– Viêm phổi, viêm khí phế quản cũng dễ gây đau ngực.
– Điều trị bằng kháng sinh thích hợp Các bệnh tiêu hóa Đau ở bụng là chính, những cũng có khi đau lên ngực.
– Loét dạ dày, tá tràng đã có khi chẩn đoán nhầm là suy vành. Nhưng đau ở đây có liên quan đến bữa ăn, chụp X quang thấy ổ loét. – Viêm dạ dày cũng có thể nhầm như vậy.
– Thoát vị khe thực quản, viêm thực quản, viêm túi mật … đều có thể gây đau ngực.
– Điều trị ở đây là chữa lí do tiêu hóa. Đau thành lồng ngực Thành lồng ngực gồm nhiều lớp: da, mô dưới da, gân, cơ, sụn, xương, khớp, dây thần kinh, viêm lớp nào cũng có thể tưởng là đau tim cả. Không những thế, bệnh ở các khớp vai hoặc ở đám rối cánh tay, ở cột sống cổ cũng có thể gây đau ngực được.
Đau thành lồng ngực có thể ngắn vài giây hoặc dài nhiều ngày. Một cách phân biệt tương đối đơn giản: ấn tay lên chỗ đau. Nếu đau ở thành lồng ngực, sẽ tăng đau, nếu đau do bệnh động mạch vành thì đau vẫn như trước.
– Điều trị: uống thuốc giảm đau, hoặc thuốc chống viêm không steroid (aspirin, indometacin …); Có thể dùng thốc bôi ngoài da tại chỗ đau.
Vì đau ngực có rất nhiều lí do, và một số lí do có thể tác động đến tính mạng, do đó em nên sớm đi khám ở các bệnh viện đa khoa lớn để được chẩn đoán chính xác và có hướng chữa trị phù hợp.
Chúc em mạnh khỏe!
Khó thở, đau tim, làm việc nặng nhịp tim nhanh có phải là dấu hiệu của bệnh xơ vữa động mạch?
Câu hỏi bởi: Lê Văn Cường
Chào bác sĩ.
Cháu thường có triệu chứng khó thở, đau tim, làm việc nặng nhịp tim nhanh. Cháu có đi khám ở bệnh viện Đa khoa Bắc Giang nhưng không ra. Liệu cháu có bị bệnh xơ vữa động mạch không?
Cảm ơn bác sĩ.
Bác sĩ Nguyễn Thị Thúy
Chào cháu.
Xơ vữa động mạch là sự phối hợp các hiện tượng thay đổi lớp nội mạc của các động mạch lớn và vừa, bao gồm sự hình thành tại chỗ các chất lipid, các phức bộ glucid, máu và các sản phẩm của máu, mô xơ và cặn lắng acid. Tất cả các yếu tố này kèm theo sẽ làm thay đổi ở lớp trung mạc. Nguyên nhân chủ yếu là sự lắng đọng mỡ và các màng tế bào tại lớp bao trong thành động mạch gọi là mảng vữa. Bệnh xơ vữa động mạch thường không có biểu hiện cho đến khi mảng xơ vữa gây hẹp nặng hoặc tắc hoàn toàn một nhánh động mạch. Do vậy, nhiều bệnh nhân không biết mình có bệnh cho đến khi bị một tình trạng cấp cứu như nhồi máu cơ tim hoặc tai biến mạch máu não.
Vữa xơ động mạch thường chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn tiềm tàng: chưa có triệu chứng lâm sàng.
Giai đoạn lâm sàng: có các biểu hiện thiếu máu cơ quan điển hình.
Giai đoạn biến chứng các cơ quan do sự thiếu máu cục bộ gây ra.
Triệu chứng thường phụ thuộc vào các cơ quan bị tổn thương như:
Xơ vữa động mạch chủ: hay gặp theo thứ tự là gốc động mạch chủ, động mạch ngực, động mạch chủ bụng nhất là nơi phân chia động mạch chậu: triệu chứng là hở van động mạch chủ hay hẹp động mạch chủ hoặc phối hợp.
Xơ vữa động mạch não: triệu chứng sớm là tình trạng thiếu máu với ù tai, rối loạn trí nhớ, mau quên; về sau lú lẫn, không tập trung được, mất ngủ. Biến chứng nặng nề là tắc mạch máu não gây liệt nửa thân, rối loạn ngôn ngữ, rối loạn ý thức hay xấu hơn là hôn mê.
Xơ vữa động mạch vành: động mạch vành là động mạch đưa máu giàu oxy đến nuôi tim. Triệu chứng của xơ vữa động mạch vành thường gặp là cơn đau thắt ngực, với tình trạng đau hoặc khó chịu vùng ngực do cơ tim không được máu cung cấp đủ oxy. Đau có thể lan bả vai, cánh tay, cổ, hàm hoặc sau lưng. Đau tăng lên khi hoạt động, giảm khi nghỉ ngơi. Căng thẳng tinh thần cũng có thể khởi phát cơn đau. Những biểu hiện khác bao gồm khó thở, tim đập không đều.
Xơ vữa động mạch thận: động mạch thận cung cấp máu giàu oxi cho hai thận. Khi có mảng xơ vữa ở động mạch sẽ gây bệnh thận mãn, lâu ngày làm chức năng thận suy giảm. Ở giai đoạn sớm của bệnh thận thường không có biểu hiện hay dấu hiệu gì. Khi bệnh nặng lên, có thể gây: tiểu ít hoặc tiểu nhiều (đặc biệt là tiểu nhiều về đêm), ăn không ngon, buồn nôn. phù mặt, tay, chân. xơ vữa động mạch chi dưới: tổn thương gặp hầu hết các động mạch trừ động mạch mu bàn chân ít gặp. Triệu chứng thiếu máu chi thường gặp với tê, lạnh hai chân, cơn đau cách hồi, không bắt mạch được bên tắc mạch. Biến chứng về sau có thể gây hoại tử.
Còn hiện tượng nặng ngực, khó thở, đau tim có thể do các lí do sau:
1. Khó thở do phổi:
Hẹp đường hô hấp: khó thở thì hít vào thường do hẹp phế quản, dị vật trong phế quản, chèn ép trung thất hoặc khó thở khi thở ra thì thường do hen phế quản, giãn phế nang.
Khó thở do tổn thương nhu mô phổi: loại này thường kèm theo tăng tần số thở, lúc nghỉ ngơi ít xuất hiện, nhưng khi gắng sức thường khó thở hơn đó là các bệnh như viêm phế quản co thắt, viêm phổi cấp, lao phổi, hoặc ứ huyết phổi trong các bệnh tim mạch như hẹp hở hai lá, suy tim…
2. Khó thở, nặng ngực do lí do thần kinh:
Yếu tố tâm lý: hay gặp ở một số người hay lo âu, hồi hộp có kèm với khó thở. Thường gặp ở phụ nữ có rối loạn thần kinh chức năng. Khám không tìm thấy tổn thương nào ở phổi cũng như không tìm thấy khó thở do lí do chuyển hoá.
Khó thở do lí do thực thể ở thần kinh như: bệnh bại liệt, bệnh nhược cơ. Lúc đầu là khó thở do gắng sức sau khó thở cả khi nghỉ ngơi và khó thở liên tục.
3. Khó thở do thiếu máu: khó thở thường nhẹ, ít khi dẫn đến khó thở khi nằm nhưng thường xuất hiện khi gắng sức do lượng hồng cầu giảm làm oxy không đủ cung cấp cho nhu cầu của cơ thể.
4. Khó thở, đau tim có thể là biểu hiện của suy tim do giảm khả năng giãn nở của cơ tim làm tăng áp lực máu quanh phổi.
Với triệu chứng bệnh của cháu như khó thở, đau tim, làm việc nặng nhịp tim nhanh thì có rất nhiều lí do. Do cháu đã khám ở Bệnh viện Đa khoa Bắc Giang nhưng không tìm ra bệnh, cháu có thể xuống các bệnh viện Trung ương tại Hà Nội và làm các xét nghiệm cần thiết để tìm ra bệnh của cháu và được chữa trị kịp thời.
Chúc cháu mau khỏe!
Các biện pháp nào để xác định bị bệnh động mạch vành?
Câu hỏi bởi: thanhdung
Chào bác sĩ.
Người thân của tôi dạo này sức khỏe kém, bị đau tim đã lâu. Chẩn đoán bị bệnh động mạch vành. Bác sĩ cho tôi hỏi: Các biện pháp nào để xác định bị bệnh động mạch vành như thế nào ạ?
Cảm ơn bác sĩ.
Bác sĩ Vũ Thị Tuyết Mai
Chào bạn.
Với bệnh nhân có bệnh động mạch vành, biểu hiện đầu tiên thường là cơn đau thắt ngực. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân không đau ngực hoặc cơn đau không điển hình. Nếu nghi ngờ người bệnh có bệnh mạch vành, bác sĩ có thể yêu cầu làm một số thăm dò để xác định bệnh. Điện tâm đồ: Điện tâm đồ là biện pháp đơn giản nhất để tìm các dấu hiệu của bệnh mạch vành. Điện tâm đồ có thể có các triệu chứng thiếu máu cơ tim hay hoại tử cơ tim, các biến chứng của bệnh mạch vành như dày thành tim, giãn buồng tim rối loạn nhịp tim. Điện tâm đồ là một thăm dò không chảy máu, đơn giản, ít tốn kém, có thể tiến hành trong vòng 5 phút. Tuy nhiên, có khá nhiều tình huống có bệnh mạch vành mà điện tâm đồ lại không biến đổi. Ngược lại, điện tâm đồ có thể biến đổi trong khi bạn lại không có bệnh mạch vành (tình huống nữ giới, bệnh nhân béo phì, tăng huyết áp). Lưu giữ các điện tâm đồ cũ để so sánh và xác định những biến đổi mới cho phép nâng cao khả năng phát hiện bệnh mạch vành.
Siêu âm tim: Siêu âm tim đánh giá vận động các thành tim. Nếu bạn có bệnh động mạch vành, vùng cơ tim được cấp máu bởi nhánh mạch vành đó sẽ không được cấp đủ oxy. Vùng cơ tim đó sẽ có hiện tượng rối loạn vận động so với các vùng khác (có thể giảm vận động hoặc hoàn toàn không vận động). Siêu âm tim cũng là một thăm dò không chảy máu, tuy nhiên đòi hỏi phương tiện hiện đại (máy siêu âm) cũng như bác sĩ được đào tạo chuyên khoa.
Mặt khác, siêu âm tim thường chỉ phát hiện được bệnh mạch vành ở giai đoạn muộn khi bệnh đã gây ra các rối loạn vận động buồng tim. Nghiệm pháp gắng sức: Nghiệm pháp gắng sức là biện pháp kinh điển để chẩn đoán bệnh mạch vành. Như chúng ta đã biết, khi nghỉ ngơi thì động mạch vành dù bị hẹp vẫn đủ khả năng đáp ứng nhu cầu oxy của cơ thể. Khi phải gắng sức, nhu cầu oxy cơ thể tăng lên, và khi đó mới lộ ra các dấu hiệu thiếu máu cơ tim. Thầy thuốc có thể yêu cầu người bệnh chạy trên thảm chạy, hoặc đạp xe tại chỗ với tốc độ tăng dần, hoặc họ sẽ truyền thuốc cho người bệnh để gây tình trạng gắng sức thực nghiệm…
Tình trạng thiếu máu cơ tim khi gắng sức sẽ được ghi nhận và đánh giá bằng một số biện pháp như điện tâm đồ gắng sức, siêu âm tim gắng sức, hoặc xạ hình cơ tim gắng sức. Qua đó, thầy thuốc đánh giá người bệnh có khả năng bị bệnh mạch vành hay không và mức độ như thế nào. Thăm dò chẩn đoán hình ảnh: Các thăm dò chẩn đoán hình ảnh, như chụp cắt lớp vi tính đa dãy động mạch vành, chụp cộng hưởng từ tim, chụp phóng xạ tưới máu cơ tim ngày càng được ứng dụng rộng rãi để chẩn đoán sớm động mạch vành. Chụp cắt lớp vi tính đa dãy mạch vành đã khá phổ biến ở các trung tâm tim mạch lớn trong nước. Phim chụp sẽ cung cấp hình ảnh giải phẫu của mạch vành, cho biết mức độ vôi hóa mạch vành, nhánh mạch vành bị hẹp, mức độ hẹp, cũng như các bất thường giải phẫu khác. Thông tim và chụp động mạch vành: Thông tim và chụp động mạch vành là biện pháp hiện đại nhất để chẩn đoán bệnh mạch vành.
Thủ thuật này được tiến hành trong phòng tim mạch can thiệp với các thiết bị chụp mạch và màn huỳnh quang tăng sáng hiện đại. Qua đường động mạch quay hoặc động mạch đùi, bác sĩ sẽ đưa một ống thông lên tim của bạn vào nhánh động mạch vành. Qua ống thông đó bác sĩ sẽ tiêm một dung dịch đặc biệt là chất cản quang vào động mạch vành của bạn. Chất cản quang cho phép bác sĩ nhìn thấy hình dạng, kích thước mạch vành trên màn huỳnh quang, đánh giá vị trí hẹp và mức độ hẹp mạch vành. Chụp động mạch vành qua da là một biện pháp thăm dò chảy máu, tuy nhiên hoàn toàn không đau đớn (không cần gây mê, chỉ cần gây tê tại chỗ) và rất hiếm gặp biến chứng. Tuy nhiên, tất cả các biện pháp để xác định bệnh mạch vành đã nêu chỉ có thể đánh giá được bệnh lý mạch vành tại thời điểm thăm khám trong khi bệnh mạch vành là bệnh lý tiến triển liên tục theo thời gian, do vậy bạn cần lưu ý đi khám định kỳ, áp dụng các biện pháp phòng bệnh để kiểm soát các yếu tố nguy cơ của bệnh mạch vành và giải đáp bác sĩ chuyên khoa Tim mạch bất cứ khi nào có các triệu chứng nghi ngờ bệnh mạch vành.
Chúc bạn mạnh khỏe.
Khó thở, hít thở không sâu và thỉnh thoảng có dấu hiệu tức ngực là bệnh gì?
Câu hỏi bởi: Giấu tên
Chào bác sĩ!
Em tên là Trung hiện tại em đang bị triệu trứng khó thở, hít thở không sâu và thỉnh thoảng có dấu hiệu tức ngực, hiện tại em bị tình trạng này kéo dài 1 tháng rồi, tình trạng này cho em cảm giác mệt mỏi và lo lắng, em có cảm giác bị đầy ở cổ hít thở vào như có vật gì chẹn ở vùng giữa ngực và thóp cổ, vậy em gửi thông tin này mọng nhận được sự giải đáp tận tình của các bác sĩ.
Em xin cảm ơn!
Bác sĩ Nguyễn Văn An
Chào bạn!
Triệu chứng khó thở, tức ngực là triệu chứng của rất nhiều bệnh lý nhất là bệnh lý của hệ Tim mạch và hệ Hô hấp.
Một số bệnh tim mạch thường gặp như: co thắt mạch vành, hẹp mạch vành,… Mạch vành là mạch chịu trách nhiệm cung cấp máu và nuôi dưỡng cho cơ tim, đảm bảo sự hoạt động bình thường của tim. Khi mạch vành bị hẹp có thể do bị co thắt hay do xơ vữa sẽ làm giảm lưu lượng tưới máu cho tim nên gây ra các biểu hiện đau thắt ngực, khó thở. Điều trị bằng thuốc giãn mạch vành đối với bệnh co thắt mạch vành và nong mạch vành đặt stent nếu mạch vành hẹp từ 70% trở lên kết hợp với chữa trị rối loạn lipid máu.
Các bệnh viêm nhiễm mãn tính của đường hô hấp cũng gây nên biểu hiện khó thở và đau tức ngực. Một số bệnh thường gặp như: viêm phế quản mãn tính, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, hen phế quản,… Các viêm nhiễm cấp tính biểu hiện thường rầm rộ hơn, ngoài biểu hiện khó thở tức ngực còn có ho, sốt, ho nhiều đờm,…
Ngoài ra thiếu máu cũng có thể dẫn đến tình trạng tức ngực, mệt mỏi, khó thở. Bởi vì khi bị thiếu máu cơ thể không được cung cấp đủ nhu cầu oxy và chất dinh dưỡng cho các hoạt động và làm việc bình thường dẫn tới các triệu chứng hoa mắt, chóng mặt, người luôn trong trạng thái mệt mỏi, thiếu máu nên không đủ cung lượng tim cho quá trình tuần hoàn, không đủ lưu lượng cung cấp cho mạch vành nuôi dưỡng tim nên người bệnh có thể có triệu chứng bị đau tức ngực.
Bạn nên đi khám Nội khoa sớm để được tìm nguyên nhân chính xác và có hướng chữa trị hiệu quả.
Chúc bạn sớm khỏi bệnh!
Đau nhói ở vị trí ngực trái, choáng nhẹ, mặt đỏ là bệnh gì?
Câu hỏi bởi: Chiêu
Em năm nay 21 tuổi, giới tính nam. Gần đây em hay có biểu hiện đau thắt ở vị trí ngực trái, em cảm nhận được đó là trên tim, khi thở mạnh có phần đau thắt hơn. Khoảng vài năm trước cơn đau thắt chỉ kéo dài chừng vài giây đến 1 phút thì dừng đau hẳn, thường thì tình trạng này xuất hiện lại rất lâu không theo bất cứ chu kì nào. Nhưng gần đây tình trạng này hay xảy ra cách nhau khoảng 4, 6 tuần em cảm thấy tim mình đập có phần nhanh hơn giống như khi hồi hợp vậy. Những cơn đau thắt khoảng vài giây, rồi vài phút xuất hiện. Dạo này em còn xuất hiện tình trạng choáng nhẹ hay đỏ bừng trên mặt. Em không biết tình trạng bệnh lý của mình như thế nào. Em mong Bác sĩ giải đáp cũng như giúp em chữa trị một cách hiệu quả.
Bác sĩ Nguyễn Vũ Cẩm Tú
Chào em.
Đau ngực là một biểu hiện có thể do nhiều bệnh mang lại, nhưng quan trọng nhất đối với các thầy thuốc và người bệnh là phân biệt đau ngực có phải do bệnh mạch vành hay không, vì việc chữa trị, cách phòng bệnh, tiên lượng hoàn toàn khác.
Đau thắt ngực gọi là “ đau thắt”, nhưng trong thực tế, phần lớn người bệnh chỉ thấy tức, nặng, chèn ép ở ngực, ít khi đau thực sự. Vị trí đau phần nhiều ở giữa ngực, sau xương ức, đôi khi ở ngực trái hoặc ngực phải, có khi đau lan lên trên (xương đòn, vai, hàm), có khi đau dọc cánh tay đến tận ngón tay). Điểm đặc trưng của đau thắt ngực là xuất hiện khi gắng sức thể lực, như đi nhanh, chạy, leo dốc, lên thang gác, vác nặng. Cũng có lúc đau khi ăn quá no, ra lạnh, hoặc xúc động (tức giận, sợ hãi …). Nghe tim, đo huyết áp, khám thực thể không có gì đặc biệt. Đau thắt ngực thường rất ngắn, từ 1 đến 10 phút, ít khi quá 15 phút.
Cách chấm dứt cơn đau rất đơn giản: nhiều khi chỉ cần ngừng gắng sức là đủ. Nếu đau nhiều, thì thầy thuốc chuyên kha cho người bệnh ngậm lâu dưới lưỡi một viên nitroglycerin 0,5mg cho tan trong miệng (đừng nuốt), chỉ vài phút sau là hết đau. Sau 15 phút, nếu còn đau thì thêm một viên thứ 2 rồi có thể viên thứ 3. Nếu không đỡ, nên gửi lên tuyến trên.
Bệnh này do động mạch vành bị hẹp, chủ yếu là hẹp do vữa xơ, hay gặp ở người đứng tuổi, nam nhiều hơn nữ. Dưới 40 tuổi, bệnh rất hiếm. Một số bệnh tim khác không phải vữa xơ động mạch vành cũng có thể gây những cơn giống đau thắt ngực và cũng xuất hiện, kho gắng sức như hẹp van chủ, hở van chủ, bệnh cơ tim phì đại. Nhồi máu cơ tim. Đau cũng ở giữa ngực, nhưng dữ dội hơn nhiều, có cảm giác sợ hãi, có khi kêu la, vã mồ hôi, tụt huyết áp. Đau kéo dài hơn đau thắt ngực, mặc dầu đã nằm nghỉ và ngậm nitronglycerin. Khám thực thể không có gì đặc biệt. Nếu đau quá 30 phút, cần nghĩ là đã nhồi máu cơ tim. Là bệnh rất nặng, tử vong rất cao (khoảng 25-30%), cần phải đến viện ngay, trì hoãn có thể nguy đến tính mạng. Nếu đau quá có thể tiêm một ống morphin dưới da trước khi chuyển.
Bệnh viêm màng ngoài tim, tràn dịch màng ngoài tim. Đau cũng ở ngực, nhưng kéo dài cả ngày, chứ không liên quan đến gắng sức. Nhiều khi đau tăng lên khi ho, thở sâu, nuốt. Ngoài ra, người bệnh còn sốt, khó thở, phải ngồi dậy mới dễ chịu. Chẩn đoán phải căn cứ vào nghe tim, điện tâm đồ, X quang, chọc dò màng tim v.v… Điều trị tùy vào lí do để có hướng điều trị khác nhau:
+ Nếu dịch vàng chanh, nên nghĩ đến lao hoặc virus.
+ Dịch mủ là viêm nhiễm khuẩn, cần phải gửi lên tuyền trên để tháo mủ và cho kháng sinh liều cao.
+ Nếu dịch máu thường khó nhận định, lí do ung thư rất hiếm, vẫn cứ nên chữa như lao, trong khi chờ đợi các xét nghiệm khác.
+ Nếu đau nhiều có thể thêm các thuốc giảm đau như paracetamol, aspirin.
Bệnh phình tắc động mạch chủ: Rất hiếm, đau cũng đột ngôt, dữ dội, kéo dài và xảy ra ở người đứng tuổi; lúc đầu, đau theo nhịp đập của tim, cho nên dễ nhầm với nhồi máu cơ tim. Cho thuốc giảm đau liều cao và gửi ngay đến trung tâm phẫu thuật. Các bệnh hô hấp Bằng khám lâm sàng hoặc X quang, đa số có thể chẩn đoán được:
– Viêm màng phổi, dù lí do gì, cũng gây đau ngưc. Đau kéo dài, đau liên quan với nhịp thở, hoặc kèm sốt và ho.
– Điều trị tùy lí do lao hoặc vi khuẩn khác.
– Tràn khí màng phổi: đau đột ngột, khó thở (nghe phổi: mất rì rào phế nang, gõ vang). Phải hút khí bằng kim.
– Viêm phổi, viêm khí phế quản cũng dễ gây đau ngực.
– Điều trị bằng kháng sinh thích hợp Các bệnh tiêu hóa Đau ở bụng là chính, những cũng có khi đau lên ngực.
– Loét dạ dày, tá tràng đã có khi chẩn đoán nhầm là suy vành. Nhưng đau ở đây có liên quan đến bữa ăn, chụp X quang thấy ổ loét. – Viêm dạ dày cũng có thể nhầm như vậy.
– Thoát vị khe thực quản, viêm thực quản, viêm túi mật … đều có thể gây đau ngực.
– Điều trị ở đây là chữa lí do tiêu hóa. Đau thành lồng ngực Thành lồng ngực gồm nhiều lớp: da, mô dưới da, gân, cơ, sụn, xương, khớp, dây thần kinh, viêm lớp nào cũng có thể tưởng là đau tim cả. Không những thế, bệnh ở các khớp vai hoặc ở đám rối cánh tay, ở cột sống cổ cũng có thể gây đau ngực được.
Đau thành lồng ngực có thể ngắn vài giây hoặc dài nhiều ngày. Một cách phân biệt tương đối đơn giản: ấn tay lên chỗ đau. Nếu đau ở thành lồng ngực, sẽ tăng đau, nếu đau do bệnh động mạch vành thì đau vẫn như trước.
– Điều trị: uống thuốc giảm đau, hoặc thuốc chống viêm không steroid (aspirin, indometacin …); Có thể dùng thốc bôi ngoài da tại chỗ đau.
Vì đau ngực có rất nhiều lí do, và một số lí do có thể tác động đến tính mạng, do đó em nên sớm đi khám ở các bệnh viện đa khoa lớn để được chẩn đoán chính xác và có hướng chữa trị phù hợp.
Chúc em mạnh khỏe!
Theo ViCare