Khi phát hiện thấy có những triệu chứng nhồi máu cơ tim người bệnh cần được cấp cứu khẩn cấp, tránh chờ đợi quá lâu có thể gây ra hậu quả không đáng có, vậy triệu chứng của nhồi máu cơ tim là gì?
Triệu chứng của nhồi máu cơ tim?
Câu hỏi bởi: ChiliCa
Chào bác sĩ!
Xin hỏi bác sĩ: Dấu hiệu nào phải chú ý là có thể bị nhồi máu cơ tim?
Cảm ơn bác sĩ!
Bác sĩ Vũ Thị Tuyết Mai
Chào bạn!
Nhồi máu cơ tim là một trong những lí do dẫn đến tử vong. Bạn đã bao giờ hỏi, dấu hiệu nào cần chú ý đối với việc phát hiện nhồi máu cơ tim? Dấu hiệu cần phải chú ý bạn có thể bị nhồi máu cơ tim đó là biểu hiện đau thắt ngực. Cơn đau thắt ngực điển hình là đau như bóp nghẹt phía sau xương ức hoặc hơi lệch sang trái, lan lên vai trái và mặt trong tay trái cho đến tận ngón đeo nhẫn và ngón út. Nhiều khi bạn có cảm giác như bị “voi giẫm lên ngực”. Cơn đau thường kéo dài hơn 20 phút và không đỡ khi dùng Nitroglycerin. Một số tình huống đau có thể lan lên cổ, cằm, vai, sau lưng, tay phải, hoặc vùng thượng vị.
Tuy nhiên cũng có một số tình huống nhồi máu cơ tim có thể xảy ra mà bệnh nhân không hoặc ít cảm giác đau (nhồi máu cơ tim thầm lặng), hay gặp ở bệnh nhân sau mổ, người già, bệnh nhân có tiểu đường hoặc tăng huyết áp. Kèm theo đau người bệnh có thể rất hoảng sợ, vã mồ hôi, khó thở, hồi hộp đánh trống ngực, nôn hoặc buồn nôn, lú lẫn… Khi bạn bị đau ngực như vậy hãy nằm yên và gọi người giúp đỡ hoặc gọi điện thoại cấp cứu. Không được cố gắng đi lại hoặc tiếp tục làm việc gì đó.
Cảm ơn bác sĩ!
Các triệu chứng của nhồi máu cơ tim, cách sơ cứu và điều trị
Câu hỏi bởi: linhvtt
Chào bác sĩ!
Xin hỏi bác sĩ: Các triệu chứng của nhồi máu cơ tim? Cách sơ cứu và điều trị?
Cám ơn bác sĩ!
Bác sĩ Vũ Thị Tuyết Mai
Chào bạn!
Thường một nửa số tình huống nhồi máu cơ tim xảy ra bất ngờ trên một người từ trước đến nay vẫn bình thường. Còn một nửa xảy ra trên những người đã có nhồi máu cơ tim cũ hoặc có những cơn đau thắt ngực.
1. Cơn đau ngực: Về tính chất của cơn đau, vị trí đau, hướng lan,… Những cơn đau ngực trong nhồi máu cơ tim khác với cơn đau thắt ngực thông thường. Người bệnh thường lo lắng, hoảng hốt. Cường độ cơn đau khác hẳn, cơn đau thường ngắn, ngậm thuốc Nitroglycerin chỉ giảm không đáng kể. Các cơn đau thường liên tiếp, đau như chẹn lấy ngực, như có người chẹn ngang ở cổ không thể nào thở được, đau vã mồ hôi, có khi phải kêu to. Có người thấy đau tại một điểm vùng ngực trái, có người thấy đau sau xương ức, không ít người nhận biết được đau chỉ ở vùng trước tim, nhưng lại có người mô tả đau toàn bộ vùng ngực cả trái lẫn phải. Tuy nhiên gần như thống nhất là đau dữ dội đến nỗi có cảm giác sắp chết đến nơi nếu không được vào viện.
Chúng tôi gặp khá nhiều tình huống nhồi máu cơ tim nhưng không đau ngực mà đau vùng thượng vị khiến tưởng nhầm thủng dạ dày, lại có bệnh nhân đau khu trú ở vùng hố chậu phải. Người ta hay thấy đau thượng vị ở những người bị nhồi máu cơ tim thành dưới. Chúng tôi đã có tình huống chẩn đoán viêm ruột thừa chuẩn bị mổ, nhưng trước khi mổ cho làm điện tim; trên điện tim lại thấy hình ảnh nhồi máu cơ tim, và chữa trị nhồi máu cơ tim ổn định thì hết đau hố chậu phải.
Vì thế trong sách y học người ta hay nói đến “hội chứng bụng” trong nhồi máu cơ tim. Hướng lan của đau cũng đặc biệt. Trong tình huống điển hình đau thường lan lên bả vai trái, cánh tay, cẳng tay và các ngón của bàn tay, trái nhất là ngón út. Có khi đau gây mỏi cổ, cứng hàm, tê mặt,… đây là những nét rất riêng về hướng lan dựa vào đó người ta có thể phân biệt được các cơn đau ngực do viêm dây thần kinh liên sườn, đau thành ngực, đau do dày dính màng phổi cũ do hội chứng vùi lấp, do viêm sụn sườn,…
Như vậy đau ngực không chỉ đơn thuần do nhồi máu cơ tim. Khác cơn đau thắt ngực thông thường, trong nhồi máu cơ tim cơn đau kéo dài, quá 15-30 phút. Ngừng gắng sức và uống thuốc Nitroglycerin ít tác dụng, nếu có tác dụng thì chỉ trong thời gian rất ngắn. Tóm lại cơn đau ngực trong nhồi máu cơ tim khác hẳn cơn đau thắt ngực thông thường ở mấy tính chất sau:
Cường độ đau lớn hơn.
Thời gian đau kéo dài hơn.
Ngừng gắng sức và uống thuốc giãn mạch (nhóm nitrat) không có tác dụng cắt cơn đau. Thậm chí có những bệnh nhân ngay cả Dolargan, Morphin cũng không cắt được cơn đau.
Theo giáo sư Vũ Ðình Hải, chỉ có 1/3 số tình huống nhồi máu cơ tim đau xuất hiện có liên quan đến gắng sức. Cũng có tới 15%-20% tình huống nhồi máu cơ tim mà không có cơn đau ngực. Hay thấy có ở những tình huống sau đây:
Bệnh nhân cao tuổi.
Vốn đã có bệnh đái tháo đường.
Vốn có tăng huyết áp.
Bệnh nhân đang trong thời kỳ hậu phẫu. Ở những bệnh nhân không có cơn đau thắt ngực, chẩn đoán chủ yếu dựa vào biến đổi điện tâm đồ và tăng cao một số men tim.
2. Biến đổi điện tâm đồ: Ðiện tâm đồ là biểu đồ ghi sự biến đổi dòng điện sinh học của các tế bào cơ tim. Chẩn đoán nhồi máu cơ tim chủ yếu dựa vào sự biến đổi của sóng Q, đoạn ST, sóng T và sóng R. Như vậy ta hiểu được rằng nhồi máu cơ tim là tên gọi của vùng tim đã bị hoại tử do thiếu oxy nuôi dưỡng. Quá trình này được mô tả theo trình tự ban đầu là thiếu máu nuôi dưỡng cơ tim, tình trạng này không được chữa sẽ dẫn đến tổn thương vùng cơ tim thiếu máu đó và sau cùng vùng cơ tim này bị hoại tử, tạo nên vùng cơ tim bị nhồi máu.
Vì vậy đánh giá mức độ nặng nhẹ của nhồi máu cơ tim bên cạnh vị trí nhồi máu người ta rất chú ý đến bề rộng của vùng cơ tim bị hoại tử. Vẫn biết rằng quan sát biến đổi trên điện tâm đồ là công việc của người thầy thuốc, song chúng tôi cũng nói đến một cách sơ bộ để độc giả hiểu được như thế nào là hình ảnh điện tim của nhồi máu cơ tim. Tổn thương cơ tim trong nhồi máu cơ tim
Thiếu máu cục bộ.
Tổn thương.
Hoại tử.
Ðiện tim thay đổi theo từng giai đoạn trong nhồi máu cơ tim thành trước và thành dưới. Trong sự biến đổi của điện tim thì sự biến đổi của đoạn ST, sóng T, sóng Q là có nghĩa hơn cả bởi chúng là tấm gương phản ánh quá trình tổn thương và hoại tử cơ tim.
Biến đổi của sóng T: Ðến sớm nhất là 1 sóng T khổng lồ, nếu có điện tâm đồ cũ đễ nhận biết bởi sự so sánh giữa điện tâm đồ đó với điện tâm đồ mới. Tiếp đến là sóng T thấp dần, rồi đến sóng T âm (gọi là sóng T vành). Sóng T âm sâu dần đến một mức độ nào đó, sóng T lại bớt sâu để rồi có T dẹt và sau cùng một số tình huống sóng T lại dương lại.
Biến đổi của đoạn ST: Ðoạn ST chênh lên dần dần, đây là dấu hiệu nhạy, có sớm. Ðoạn ST chênh lên bằng hoặc hơn 2 mm và có ít nhất 2/12 đạo trình mới có ý nghĩa. Ðoạn ST chênh lên kết hợp với sóng T khổng lồ phía sau tạo thành một sóng có hình “vòm” gọi là sóng Pardee. Sau khi chênh lên đến tối đa, đoạn ST sẽ hạ dần dần để rồi trở về đường thẳng điện. Ðoạn ST chênh kéo dài hay gặp trong những tình huống phình vách tâm thất.
Biến đổi của sóng Q: Sóng Q còn có tên gọi là sóng hoại tử, nó đặc trưng cho hoại tử cơ tim. Sóng Q thường có muộn hơn biến đổi ST. Hay thấy xuất hiện ở giờ thứ 4 đến giờ thứ 6 sau khi nhồi máu cơ tim xuất hiện. Về tiêu chuẩn sóng Q bệnh lý, người ta thường nói đến một sóng Q rộng hơn 0,04 giây và sâu bằng hoặc sâu hơn 3 mm. Dựa vào sóng Q người ta biết được bề rộng của vùng hoại tử cơ tim. Sóng Q sẽ tồn tại mãi, đây là dấu hiệu của vùng cơ tim hoại tử.
3. Biến đổi men tim: Có 3 loại men tim được chú ý nhiều nhất, sự tăng lên của các men này giúp cho việc chẩn đoán sớm nhồi máu cơ tim, đó là Transaminase, CPK, LDH. Ở Việt Nam chủ yếu là men Transaminase (với SGOT) vì dễ làm hơn cả.
Transaminase (SGOT còn gọi là ASAT): Tăng dần từ giờ thứ 4 của bệnh, từ giờ thứ 12 đến giờ thứ 24, có thể cao gấp 5-10 lần bình thường (SGOT bình thường từ 6-17 đơn vị/l), tăng tối đa ở ngày thứ ba, tăng kéo dài, sau đến 7 ngày men này trở lại bình thường.
Creatin phosphakinase (CPK): Tăng ngay ở giờ thứ nhất, giờ thứ hai, thứ ba trong nhồi máu cơ tim, tăng cao nhất ở ngày đầu, sau đó giảm dần đến ngày thứ 4, thứ 5 chúng đã trở lại bình thường (CPK bình thường là 5,5 đơn vị/l). Vì vậy men này rất có ích để chẩn đoán sớm nhồi máu cơ tim, ngay từ mấy giờ đầu tiên.
Lactic dehydrogenase (LDH): Từ giờ thứ 16 đến giờ thứ 24 men này bắt đầu tăng, tăng cao nhất ở ngày thứ 6 có thể tăng kéo dài 8 đến 15 ngày. Men này không có giá trị để chẩn đoán sớm nhồi máu cơ tim như men CPK. Diễn biến 3 men chính trong nhồi máu cơ tim cấp. Giới hạn bình thường:
CK: Nữ 10-70 UI/l; Nam: 25-90 UI/l
LDH: 25-100 UI/l
SGOT: 0-35 UI/l
X6, X4, X2 tăng gấp 6 lần, 4 lần, 2 lần.
Ngoài 3 tiêu chuẩn chính để chẩn đoán nhồi máu cơ tim là đau ngực, biến đổi điện tim, biến đổi men tim, người ta còn thấy có một số biểu hiện khác nữa như:
4. Triệu chứng tiêu hóa đồng thời với đau ngực, buồn nôn và nôn là những biểu hiện thường gặp. Bởi vậy đa số bệnh nhân vẫn tự giải thích là mình bị cảm; có người còn xoa dầu nóng, “cạo gió”,… những tình huống nhồi máu cơ tim thành dưới hay thấy đầu bụng, chướng hơi, bí trung tiện, đau thượng vị, có khi lại nấc liên tục. Có những bệnh nhân nhồi máu cơ tim đau vùng thượng vị dữ dội, đau đến mức được chẩn đoán dạ dày bị thủng và phẫu thuật. Mổ không có thủng mà lại thấy nhồi máu cơ tim. Có bệnh nhân nhồi máu cơ tim lại có biểu hiện của viêm ruột thừa. Ðịnh can thiệp bằng phẫu thuật nhưng trước lúc mổ làm điện tâm đồ lại thấy nhồi máu cơ tim. Cũng may mắn là tỷ lệ các tình huống khác thường này không nhiều.
5. Tụt huyết áp: Người ta thường hay nói đến sốc tim trong nhồi máu cơ tim với vật vã, kích thích, vã mồ hôi, chân tay lạnh, hốt hoảng, tụt huyết áp. Những bệnh nhân này có tỷ lệ tử vong 85%. Chúng tôi nhận xét thầy rằng hầu hết bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim bao giờ huyết áp cũng hấp hơn (kể cả người có bệnh tăng huyết áp tước khi bị nhồi máu cơ tim). Tình trạng huyết áp thấp thường kéo dài từ 1-3 tháng, có tình huống đến 1 năm. Sau đó huyết áp tăng dần và “trả lại” tăng huyết áp cho người có bệnh tăng huyết áp trước khi bị nhồi máu cơ tim.
6. Sốt: Thường gặp ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim giờ thứ 12. Sốt cao 38 độ-39 độ C, số ít bệnh nhân có rét run giống như sốt rét cơn. Tuy nhiên mọi người đều thấy rằng nếu sốt càng cao, thời gian sốt càng kéo dài thì tiên lượng bệnh càng nặng.
7. Nghe tim: Thường thấy nhịp tim nhanh đều 100-100 lần/phút, tiếng nhip tim thường mờ, khó nghe. Ở một số tình huống có thể ngay được tiếng ngựa phi, tiếng cọ ngoài màng tim. Tuy nhiên 4 trệu chứng này chỉ là những biểu hiện phụ trợ. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, ba tiêu chuẩn chính để chẩn đoán là cơn đau ngực, biến đổi điện tim và biến đổi men tim. Nhồi máu cơ tim về tiên lượng còn rất nặng nề, theo Pasternal (Mỹ) thì chết 25% trong đó khoảng 13% tử vong ở nhà, và 12% tử vong ở thời kỳ trong bệnh viện, còn đến 5 đến 10% nữa chết trong năm đầu. Không như nhiều bệnh khác, bệnh này về biểu hiện chủ quan chỉ có duy nhất là cơn đau ngực “kiểu vành”. Bệnh xảy ra đột ngột, diễn biến nặng nề. Vì thế ở các nước văn minh, sự ra đời của các ô tô cấp cứu với đầy đủ trang thiết bị như thuốc, oxy, điện tim, máy phá rung,… để có thể xử trí cấp cứu tại nhà, do đó đã góp phần hạ thấp tỉ lệ tử vong của nhồi máu cơ tim một cách đáng kể.
Tiếp theo là các Trung tâm Cấp cứu tích cực bệnh động mạch (CCU: Coronary Care Unit) với cách tổ chức là Nội khoa, bán Ngoại khoa. Các trung tâm này cực kỳ có ý nghĩa trong việc chữa trị nhồi máu cơ tim cấp tính ở thời kỳ sớm. Thí dụ nếu một bệnh nhân có đau ngực chữa trị bằng thuốc giãn mạch không cắt cơn được, người ta chụp động mạch vành phát hiện chỗ tắc sau đó xét thủ thuật nong động mạch vành. Nếu nong không kết quả từ khu vực bán Ngoại khoa ấy người bệnh được chuyển đến khu Ngoại khoa phẫu thuật tạo vòng nối (Bypass). Khi nào cơn nhồi máu có tim có thể xuất hiện?
Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu lí do gây ra nhồi máu cơ tim là do tình trạng thiếu máu cục bộ cơ tim. Thiếu máu cục bộ cơ tim do nhiều lí do nhưng có lí do chính là mảng xơ vữa và cục máu đông. Khi mỡ lắng xuống xung quanh thành mạch chúng tạo ra những mảng xơ vữa, theo thời gian khối mỡ này dày lên, làm cho lòng mạch hẹp lại gây cản trở dòng máu lưu thông. Kết hợp với cục máu đông sẽ dẫn đến tắc hoàn toàn mạch vành và nhồi máu cơ tim xảy ra. Nhồi máu cơ tim là căn bệnh có thể xảy ra bất kỳ lúc nào khi vận động, tập thể dục, trúng phong, nghỉ ngơi…
Vì vậy, có những kiến thức cơ bản để xử trí cơn nhồi máu cơ tim là việc vô cùng cần thiết để đảm bảo an toàn tính mạng. Làm gì khi nhồi máu cơ tim xuất hiện?
Thứ nhất: Tư thế bệnh nhân: Khi có những dấu hiệu bệnh như cơn đau thắt ngực, khó thở, vã mồ hôi, chóng mặt, lạnh chân tay… cần phải khẩn trương gọi cấp cứu để đưa bệnh nhân đến bệnh viện càng sớm càng tốt. Trong lúc chờ đợi nên dùng ngay Nitroglycerin đặt dưới lưỡi bệnh nhân, giữ bệnh nhân ở trạng thái nửa nằm, nửa ngồi. Khi vận chuyển bệnh nhân phải được tiến hành bằng xe cứu thương chuyên dụng thở oxy, truyền tĩnh mạch, làm điện tim trên xe và có thể bắt đầu chữa trị.
Thứ hai: Thực hiện phương pháp ép tim: Trong thời gian chờ đợi xe cứu thương, để nạn nhân nằm trên mặt phẳng cứng, người tiến hành ép tim quỳ gối bên trái nạn nhân. Hai bàn tay chồng lên nhau rồi để trước tim, tương ứng với điểm giữa hai núm vú hoặc khoang liên sườn 4 – 5 bên ngực trái, từ từ ấn sâu xuống khoảng 1/3 cho đến một nửa bề dày lồng ngực, sau đó nới lỏng tay ra. Thao tác này thực hiện 60 lần/phút. Khi ép xuống ngực bệnh nhân sẽ tạo ra một lực cơ học lên tim, tim sẽ có thể co bóp và đưa máu vào trong hệ tuần hoàn, giúp máu lưu thông.
Thứ ba: Hô hấp nhân tạo: Đây là phương pháp khá dễ làm nhưng vô cùng quan trọng, giúp đảm bảo oxy cho bệnh nhân, lưu thông máu. Để nạn nhân nằm ở nơi thoáng đãng, nới rộng quần áo và dây thắt lưng, đệm dưới cổ cho đầu hơi ngửa ra sau để đảm bảo đường hô hấp được thông thoáng, lấy dị vật trong miệng nạn nhân nếu có. Đẩy đầu bệnh nhân về phía sau, nâng hai cằm lên cho hai hàm răng gần như chạm nhau đồng thời lắng nghe hơi thở nạn nhân. Sau đó bịt mũi nạn nhân, dùng miệng ngậm kín miệng nạn nhân thở hai hơi liên tiếp vào miệng nạn nhân. Thời gian dành cho chúng ta không nhiều, vì vậy cần phải tiến hành ngay các phương pháp sơ cứu kịp thời. Trước tình trạng mất ý thức do tim hay bất cứ nguyên nhân nào khác, chúng ta chỉ có 3 phút từ lúc tim ngừng đập đến khi xuất hiện những tổn thương não không hồi phục. Vì thế chúng ta phải ngay lập tức hồi sinh tim cho bệnh nhân.
Thứ tư: Khi xe cấp cứu đến: Khi các nhân viên y tế đến sẽ tiến hành đặt nội khí quản (ống cắm vào cổ họng bệnh nhân để cung cấp oxy), trong lúc đó chúng ta vẫn phải tiến hành ép tim cho đến khi đến bệnh viện. Nếu bệnh nhân vẫn bị ngừng tim (tim không đập), rung tim (tim bị rung nhẹ) thì không thể bơm máu đi được nữa, khi đó phải tiến hành sốc điện ngoài lồng ngực. Sốc điện giống như một báo động mạnh gọi quả tim tỉnh dậy làm việc của nó. Nguồn điện ở máy sốc điện sẽ giật mạnh các cơ tim, tạo thể hoạt động mồi, tạo một lực giúp tim đập trở lại dễ dàng hơn.
Tóm tắt các bước sơ cứu sau khi sốc điện mà tim đập trở lại coi như bệnh nhân cấp cứu thành công. Các phương pháp sơ cứu dù có thực hiện thành công thì tính mạng của bạn cũng luôn bị rình rập bởi nhồi máu cơ tim là căn bệnh khả năng tái phát rất cao. Vì vậy, thực hiện chế độ ăn uống, sinh hoạt điều độ kết hợp với sử dụng các thực phẩm bổ sung là cách tốt nhất để phòng ngừa nhồi máu cơ tim.
Thân mến!
Đau ngực và khu vực xung quanh có phải là nhồi máu cơ tim?
Câu hỏi bởi: Giấu tên
Thưa bác sĩ!
Lúc 23 giờ cháu đi ngủ thì cảm thấy đau vừa phải ở giữa ngực và xung quanh trong vòng trong vòng 1 giờ. Và hôm nay cháu có làm công việc nặng. Xin hỏi bác sĩ đó có phải là triệu chứng của nhồi máu cơ tim không. Hay là do cháu làm quá sức ạ.
Cảm ơn bác sĩ!
Bác sĩ Vũ Thị Lừu
Chào cháu!
Cháu có biểu hiện đau vừa phải ở giữa ngực và xung quanh sau khi làm công việc nặng nhọc cả ngày. Nếu tình trạng này mới xuất hiện thì không đáng lo ngại, có thể chỉ do cháu lao động quá sức, nghỉ ngơi sẽ hết. Nếu sau đó, ngay cả lúc nghỉ ngơi cháu vẫn bị đau thì cần lưu ý.
Thông thường cơn đau ngực chỉ xảy ra trong vài phút hoặc chỉ đau thoáng qua rồi tự khỏi, do đó nếu cơn đau kéo dài quá 15 – 20 phút phải nghĩ đến nhồi máu cơ tim. Nếu tình trạng đau ngực kéo dài cả ngày hay trong nhiều ngày, nhiều tuần, khi đo điện tâm đồ cho kết quả bình thường thì có thể lí do đau không phải do tim mà do một lí do khác như hô hấp hay thần kinh liên sườn… Nói chung, cháu cần theo dõi thêm vài ngày, nếu tình trạng đau vẫn tiếp tục và không cải thiện thì cần đi khám.
Chúc cháu chóng khỏe!
Ông 80 tuổi bị nhồi máu cơ tim, khả năng nói kém liệu có phục hồi không?
Câu hỏi bởi: Giấu tên
Chào bác sĩ.
Ông tôi năm nay 80 tuổi vừa trải qua căn bệnh nhồi máu não hơn 1 tháng. Hiện giờ, ông bị liệt nửa người bên phải và khả năng nói chuyện của ông rất yếu, thỉnh thoảng ông mới nói được một tiếng. Bác sĩ cho tôi hỏi liệu ông tôi có khả năng phục hồi như trước hay không.
Xin cảm ơn.
Dược sĩ Nguyễn Thị Hòa
Chào bạn!
Phục hồi chức năng cho bệnh nhân liệt nửa người sau tai biến mạch não cần lưu ý những điểm sau:
Giai đoạn đầu: Các kỹ thuật vị thế: Bố trí giường nằm, các vị thế nằm đúng theo mẫu phục hồi. Tập vận động thụ động nửa người bên liệt: Khớp vai: Gấp, duỗi,dạng, khép, xoay trong, xoay ngoài. Khớp khuỷu: Gấp, duỗi khuỷu, quay sấp, xoay ngửa cẳng tay. Khớp cổ tay: Gấp, duỗi, nghiêng trong, nghiêng ngoài khớp cổ tay. Các ngón tay: Gấp , duỗi, dạng, khép các ngón tay. Khớp háng: Gấp, duỗi, dạng, khép, xoay trong, xoay ngoài. Khớp gối: Gấp, duỗi. Khớp cổ chân: Gấp, duỗi. Các ngón chân: Gấp, duỗi dạng, khép.
2. Giai đoạn sau:
Tập theo tầm vận động: tập vận động có trợ giúp, vận động chủ động.
Tập vận động ở các tư thế: nằm, ngồi, đứng, đi.
Tập vận động với các dụng cụ trợ giúp.
Tập thực hiện các hoạt động tự chăm sóc (hoạt động trị liệu).
Tập nói, giao tiếp (với những bệnh nhân thất ngôn).
3. Giai đoạn hoà nhập:
Phòng ngừa di chứng và tai biến tái phát.
Cải tạo nhà ở và môi trường xung quanh cho phù hợp với bệnh nhân.
Các dụng cụ trợ giúp cần thiết cho giai đoạn này: trợ giúp đi lại, trợ giúp sinh hoạt, trợ giúp làm việc…
Tham gia các hoạt động hoà nhập cộng đồng: nhóm trợ giúp, hội người tàn tật, tiếp cận các dịch vụ công cộng, các hoạt động của cộng đồng.
Việc làm và thu nhập: khả năng tiếp tục nghề cũ, hoặc bệnh nhân phải học một nghề mới hoặc có những hoạt động gì tạo thu nhập? Điều trị thuốc điều trị theo lí do: thuốc chống tăng huyết áp, thuốc điều hoà đường máu, thuốc chữa trị rối loạn mỡ máu, thuốc điều hoà huyết não v.v… Như vậy tốt nhất bạn nên đưa ông đến chuyên khoa Phục hồi chức năng hoặc y học cổ truyền để chữa trị và phục hồi. Các bác sĩ chuyên khoa sẽ giúp đỡ ông bạn. Tuy nhiên có phục hồi được hay không là phụ thuộc đáp ứng chữa trị của bệnh nhân bạn nhé.
Chúc gia đình sức khỏe!
Triệu chứng của nhồi máu cơ tim?
Câu hỏi bởi: ChiliCa
Chào bác sĩ!
Xin hỏi bác sĩ: Dấu hiệu nào phải chú ý là có thể bị nhồi máu cơ tim?
Cảm ơn bác sĩ!
Bác sĩ Vũ Thị Tuyết Mai
Chào bạn!
Nhồi máu cơ tim là một trong những lí do dẫn đến tử vong. Bạn đã bao giờ hỏi, dấu hiệu nào cần chú ý đối với việc phát hiện nhồi máu cơ tim? Dấu hiệu cần phải chú ý bạn có thể bị nhồi máu cơ tim đó là biểu hiện đau thắt ngực. Cơn đau thắt ngực điển hình là đau như bóp nghẹt phía sau xương ức hoặc hơi lệch sang trái, lan lên vai trái và mặt trong tay trái cho đến tận ngón đeo nhẫn và ngón út. Nhiều khi bạn có cảm giác như bị “voi giẫm lên ngực”. Cơn đau thường kéo dài hơn 20 phút và không đỡ khi dùng Nitroglycerin. Một số tình huống đau có thể lan lên cổ, cằm, vai, sau lưng, tay phải, hoặc vùng thượng vị.
Tuy nhiên cũng có một số tình huống nhồi máu cơ tim có thể xảy ra mà bệnh nhân không hoặc ít cảm giác đau (nhồi máu cơ tim thầm lặng), hay gặp ở bệnh nhân sau mổ, người già, bệnh nhân có tiểu đường hoặc tăng huyết áp. Kèm theo đau người bệnh có thể rất hoảng sợ, vã mồ hôi, khó thở, hồi hộp đánh trống ngực, nôn hoặc buồn nôn, lú lẫn… Khi bạn bị đau ngực như vậy hãy nằm yên và gọi người giúp đỡ hoặc gọi điện thoại cấp cứu. Không được cố gắng đi lại hoặc tiếp tục làm việc gì đó.
Cảm ơn bác sĩ!
Các triệu chứng của nhồi máu cơ tim, cách sơ cứu và điều trị
Câu hỏi bởi: linhvtt
Chào bác sĩ!
Xin hỏi bác sĩ: Các triệu chứng của nhồi máu cơ tim? Cách sơ cứu và điều trị?
Cám ơn bác sĩ!
Bác sĩ Vũ Thị Tuyết Mai
Chào bạn!
Thường một nửa số tình huống nhồi máu cơ tim xảy ra bất ngờ trên một người từ trước đến nay vẫn bình thường. Còn một nửa xảy ra trên những người đã có nhồi máu cơ tim cũ hoặc có những cơn đau thắt ngực.
1. Cơn đau ngực: Về tính chất của cơn đau, vị trí đau, hướng lan,… Những cơn đau ngực trong nhồi máu cơ tim khác với cơn đau thắt ngực thông thường. Người bệnh thường lo lắng, hoảng hốt. Cường độ cơn đau khác hẳn, cơn đau thường ngắn, ngậm thuốc Nitroglycerin chỉ giảm không đáng kể. Các cơn đau thường liên tiếp, đau như chẹn lấy ngực, như có người chẹn ngang ở cổ không thể nào thở được, đau vã mồ hôi, có khi phải kêu to. Có người thấy đau tại một điểm vùng ngực trái, có người thấy đau sau xương ức, không ít người nhận biết được đau chỉ ở vùng trước tim, nhưng lại có người mô tả đau toàn bộ vùng ngực cả trái lẫn phải. Tuy nhiên gần như thống nhất là đau dữ dội đến nỗi có cảm giác sắp chết đến nơi nếu không được vào viện.
Chúng tôi gặp khá nhiều tình huống nhồi máu cơ tim nhưng không đau ngực mà đau vùng thượng vị khiến tưởng nhầm thủng dạ dày, lại có bệnh nhân đau khu trú ở vùng hố chậu phải. Người ta hay thấy đau thượng vị ở những người bị nhồi máu cơ tim thành dưới. Chúng tôi đã có tình huống chẩn đoán viêm ruột thừa chuẩn bị mổ, nhưng trước khi mổ cho làm điện tim; trên điện tim lại thấy hình ảnh nhồi máu cơ tim, và chữa trị nhồi máu cơ tim ổn định thì hết đau hố chậu phải.
Vì thế trong sách y học người ta hay nói đến “hội chứng bụng” trong nhồi máu cơ tim. Hướng lan của đau cũng đặc biệt. Trong tình huống điển hình đau thường lan lên bả vai trái, cánh tay, cẳng tay và các ngón của bàn tay, trái nhất là ngón út. Có khi đau gây mỏi cổ, cứng hàm, tê mặt,… đây là những nét rất riêng về hướng lan dựa vào đó người ta có thể phân biệt được các cơn đau ngực do viêm dây thần kinh liên sườn, đau thành ngực, đau do dày dính màng phổi cũ do hội chứng vùi lấp, do viêm sụn sườn,…
Như vậy đau ngực không chỉ đơn thuần do nhồi máu cơ tim. Khác cơn đau thắt ngực thông thường, trong nhồi máu cơ tim cơn đau kéo dài, quá 15-30 phút. Ngừng gắng sức và uống thuốc Nitroglycerin ít tác dụng, nếu có tác dụng thì chỉ trong thời gian rất ngắn. Tóm lại cơn đau ngực trong nhồi máu cơ tim khác hẳn cơn đau thắt ngực thông thường ở mấy tính chất sau:
Cường độ đau lớn hơn.
Thời gian đau kéo dài hơn.
Ngừng gắng sức và uống thuốc giãn mạch (nhóm nitrat) không có tác dụng cắt cơn đau. Thậm chí có những bệnh nhân ngay cả Dolargan, Morphin cũng không cắt được cơn đau.
Theo giáo sư Vũ Ðình Hải, chỉ có 1/3 số tình huống nhồi máu cơ tim đau xuất hiện có liên quan đến gắng sức. Cũng có tới 15%-20% tình huống nhồi máu cơ tim mà không có cơn đau ngực. Hay thấy có ở những tình huống sau đây:
Bệnh nhân cao tuổi.
Vốn đã có bệnh đái tháo đường.
Vốn có tăng huyết áp.
Bệnh nhân đang trong thời kỳ hậu phẫu. Ở những bệnh nhân không có cơn đau thắt ngực, chẩn đoán chủ yếu dựa vào biến đổi điện tâm đồ và tăng cao một số men tim.
2. Biến đổi điện tâm đồ: Ðiện tâm đồ là biểu đồ ghi sự biến đổi dòng điện sinh học của các tế bào cơ tim. Chẩn đoán nhồi máu cơ tim chủ yếu dựa vào sự biến đổi của sóng Q, đoạn ST, sóng T và sóng R. Như vậy ta hiểu được rằng nhồi máu cơ tim là tên gọi của vùng tim đã bị hoại tử do thiếu oxy nuôi dưỡng. Quá trình này được mô tả theo trình tự ban đầu là thiếu máu nuôi dưỡng cơ tim, tình trạng này không được chữa sẽ dẫn đến tổn thương vùng cơ tim thiếu máu đó và sau cùng vùng cơ tim này bị hoại tử, tạo nên vùng cơ tim bị nhồi máu.
Vì vậy đánh giá mức độ nặng nhẹ của nhồi máu cơ tim bên cạnh vị trí nhồi máu người ta rất chú ý đến bề rộng của vùng cơ tim bị hoại tử. Vẫn biết rằng quan sát biến đổi trên điện tâm đồ là công việc của người thầy thuốc, song chúng tôi cũng nói đến một cách sơ bộ để độc giả hiểu được như thế nào là hình ảnh điện tim của nhồi máu cơ tim. Tổn thương cơ tim trong nhồi máu cơ tim
Thiếu máu cục bộ.
Tổn thương.
Hoại tử.
Ðiện tim thay đổi theo từng giai đoạn trong nhồi máu cơ tim thành trước và thành dưới. Trong sự biến đổi của điện tim thì sự biến đổi của đoạn ST, sóng T, sóng Q là có nghĩa hơn cả bởi chúng là tấm gương phản ánh quá trình tổn thương và hoại tử cơ tim.
Biến đổi của sóng T: Ðến sớm nhất là 1 sóng T khổng lồ, nếu có điện tâm đồ cũ đễ nhận biết bởi sự so sánh giữa điện tâm đồ đó với điện tâm đồ mới. Tiếp đến là sóng T thấp dần, rồi đến sóng T âm (gọi là sóng T vành). Sóng T âm sâu dần đến một mức độ nào đó, sóng T lại bớt sâu để rồi có T dẹt và sau cùng một số tình huống sóng T lại dương lại.
Biến đổi của đoạn ST: Ðoạn ST chênh lên dần dần, đây là dấu hiệu nhạy, có sớm. Ðoạn ST chênh lên bằng hoặc hơn 2 mm và có ít nhất 2/12 đạo trình mới có ý nghĩa. Ðoạn ST chênh lên kết hợp với sóng T khổng lồ phía sau tạo thành một sóng có hình “vòm” gọi là sóng Pardee. Sau khi chênh lên đến tối đa, đoạn ST sẽ hạ dần dần để rồi trở về đường thẳng điện. Ðoạn ST chênh kéo dài hay gặp trong những tình huống phình vách tâm thất.
Biến đổi của sóng Q: Sóng Q còn có tên gọi là sóng hoại tử, nó đặc trưng cho hoại tử cơ tim. Sóng Q thường có muộn hơn biến đổi ST. Hay thấy xuất hiện ở giờ thứ 4 đến giờ thứ 6 sau khi nhồi máu cơ tim xuất hiện. Về tiêu chuẩn sóng Q bệnh lý, người ta thường nói đến một sóng Q rộng hơn 0,04 giây và sâu bằng hoặc sâu hơn 3 mm. Dựa vào sóng Q người ta biết được bề rộng của vùng hoại tử cơ tim. Sóng Q sẽ tồn tại mãi, đây là dấu hiệu của vùng cơ tim hoại tử.
3. Biến đổi men tim: Có 3 loại men tim được chú ý nhiều nhất, sự tăng lên của các men này giúp cho việc chẩn đoán sớm nhồi máu cơ tim, đó là Transaminase, CPK, LDH. Ở Việt Nam chủ yếu là men Transaminase (với SGOT) vì dễ làm hơn cả.
Transaminase (SGOT còn gọi là ASAT): Tăng dần từ giờ thứ 4 của bệnh, từ giờ thứ 12 đến giờ thứ 24, có thể cao gấp 5-10 lần bình thường (SGOT bình thường từ 6-17 đơn vị/l), tăng tối đa ở ngày thứ ba, tăng kéo dài, sau đến 7 ngày men này trở lại bình thường.
Creatin phosphakinase (CPK): Tăng ngay ở giờ thứ nhất, giờ thứ hai, thứ ba trong nhồi máu cơ tim, tăng cao nhất ở ngày đầu, sau đó giảm dần đến ngày thứ 4, thứ 5 chúng đã trở lại bình thường (CPK bình thường là 5,5 đơn vị/l). Vì vậy men này rất có ích để chẩn đoán sớm nhồi máu cơ tim, ngay từ mấy giờ đầu tiên.
Lactic dehydrogenase (LDH): Từ giờ thứ 16 đến giờ thứ 24 men này bắt đầu tăng, tăng cao nhất ở ngày thứ 6 có thể tăng kéo dài 8 đến 15 ngày. Men này không có giá trị để chẩn đoán sớm nhồi máu cơ tim như men CPK. Diễn biến 3 men chính trong nhồi máu cơ tim cấp. Giới hạn bình thường:
CK: Nữ 10-70 UI/l; Nam: 25-90 UI/l
LDH: 25-100 UI/l
SGOT: 0-35 UI/l
X6, X4, X2 tăng gấp 6 lần, 4 lần, 2 lần.
Ngoài 3 tiêu chuẩn chính để chẩn đoán nhồi máu cơ tim là đau ngực, biến đổi điện tim, biến đổi men tim, người ta còn thấy có một số biểu hiện khác nữa như:
4. Triệu chứng tiêu hóa đồng thời với đau ngực, buồn nôn và nôn là những biểu hiện thường gặp. Bởi vậy đa số bệnh nhân vẫn tự giải thích là mình bị cảm; có người còn xoa dầu nóng, “cạo gió”,… những tình huống nhồi máu cơ tim thành dưới hay thấy đầu bụng, chướng hơi, bí trung tiện, đau thượng vị, có khi lại nấc liên tục. Có những bệnh nhân nhồi máu cơ tim đau vùng thượng vị dữ dội, đau đến mức được chẩn đoán dạ dày bị thủng và phẫu thuật. Mổ không có thủng mà lại thấy nhồi máu cơ tim. Có bệnh nhân nhồi máu cơ tim lại có biểu hiện của viêm ruột thừa. Ðịnh can thiệp bằng phẫu thuật nhưng trước lúc mổ làm điện tâm đồ lại thấy nhồi máu cơ tim. Cũng may mắn là tỷ lệ các tình huống khác thường này không nhiều.
5. Tụt huyết áp: Người ta thường hay nói đến sốc tim trong nhồi máu cơ tim với vật vã, kích thích, vã mồ hôi, chân tay lạnh, hốt hoảng, tụt huyết áp. Những bệnh nhân này có tỷ lệ tử vong 85%. Chúng tôi nhận xét thầy rằng hầu hết bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim bao giờ huyết áp cũng hấp hơn (kể cả người có bệnh tăng huyết áp tước khi bị nhồi máu cơ tim). Tình trạng huyết áp thấp thường kéo dài từ 1-3 tháng, có tình huống đến 1 năm. Sau đó huyết áp tăng dần và “trả lại” tăng huyết áp cho người có bệnh tăng huyết áp trước khi bị nhồi máu cơ tim.
6. Sốt: Thường gặp ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim giờ thứ 12. Sốt cao 38 độ-39 độ C, số ít bệnh nhân có rét run giống như sốt rét cơn. Tuy nhiên mọi người đều thấy rằng nếu sốt càng cao, thời gian sốt càng kéo dài thì tiên lượng bệnh càng nặng.
7. Nghe tim: Thường thấy nhịp tim nhanh đều 100-100 lần/phút, tiếng nhip tim thường mờ, khó nghe. Ở một số tình huống có thể ngay được tiếng ngựa phi, tiếng cọ ngoài màng tim. Tuy nhiên 4 trệu chứng này chỉ là những biểu hiện phụ trợ. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, ba tiêu chuẩn chính để chẩn đoán là cơn đau ngực, biến đổi điện tim và biến đổi men tim. Nhồi máu cơ tim về tiên lượng còn rất nặng nề, theo Pasternal (Mỹ) thì chết 25% trong đó khoảng 13% tử vong ở nhà, và 12% tử vong ở thời kỳ trong bệnh viện, còn đến 5 đến 10% nữa chết trong năm đầu. Không như nhiều bệnh khác, bệnh này về biểu hiện chủ quan chỉ có duy nhất là cơn đau ngực “kiểu vành”. Bệnh xảy ra đột ngột, diễn biến nặng nề. Vì thế ở các nước văn minh, sự ra đời của các ô tô cấp cứu với đầy đủ trang thiết bị như thuốc, oxy, điện tim, máy phá rung,… để có thể xử trí cấp cứu tại nhà, do đó đã góp phần hạ thấp tỉ lệ tử vong của nhồi máu cơ tim một cách đáng kể.
Tiếp theo là các Trung tâm Cấp cứu tích cực bệnh động mạch (CCU: Coronary Care Unit) với cách tổ chức là Nội khoa, bán Ngoại khoa. Các trung tâm này cực kỳ có ý nghĩa trong việc chữa trị nhồi máu cơ tim cấp tính ở thời kỳ sớm. Thí dụ nếu một bệnh nhân có đau ngực chữa trị bằng thuốc giãn mạch không cắt cơn được, người ta chụp động mạch vành phát hiện chỗ tắc sau đó xét thủ thuật nong động mạch vành. Nếu nong không kết quả từ khu vực bán Ngoại khoa ấy người bệnh được chuyển đến khu Ngoại khoa phẫu thuật tạo vòng nối (Bypass). Khi nào cơn nhồi máu có tim có thể xuất hiện?
Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu lí do gây ra nhồi máu cơ tim là do tình trạng thiếu máu cục bộ cơ tim. Thiếu máu cục bộ cơ tim do nhiều lí do nhưng có lí do chính là mảng xơ vữa và cục máu đông. Khi mỡ lắng xuống xung quanh thành mạch chúng tạo ra những mảng xơ vữa, theo thời gian khối mỡ này dày lên, làm cho lòng mạch hẹp lại gây cản trở dòng máu lưu thông. Kết hợp với cục máu đông sẽ dẫn đến tắc hoàn toàn mạch vành và nhồi máu cơ tim xảy ra. Nhồi máu cơ tim là căn bệnh có thể xảy ra bất kỳ lúc nào khi vận động, tập thể dục, trúng phong, nghỉ ngơi…
Vì vậy, có những kiến thức cơ bản để xử trí cơn nhồi máu cơ tim là việc vô cùng cần thiết để đảm bảo an toàn tính mạng. Làm gì khi nhồi máu cơ tim xuất hiện?
Thứ nhất: Tư thế bệnh nhân: Khi có những dấu hiệu bệnh như cơn đau thắt ngực, khó thở, vã mồ hôi, chóng mặt, lạnh chân tay… cần phải khẩn trương gọi cấp cứu để đưa bệnh nhân đến bệnh viện càng sớm càng tốt. Trong lúc chờ đợi nên dùng ngay Nitroglycerin đặt dưới lưỡi bệnh nhân, giữ bệnh nhân ở trạng thái nửa nằm, nửa ngồi. Khi vận chuyển bệnh nhân phải được tiến hành bằng xe cứu thương chuyên dụng thở oxy, truyền tĩnh mạch, làm điện tim trên xe và có thể bắt đầu chữa trị.
Thứ hai: Thực hiện phương pháp ép tim: Trong thời gian chờ đợi xe cứu thương, để nạn nhân nằm trên mặt phẳng cứng, người tiến hành ép tim quỳ gối bên trái nạn nhân. Hai bàn tay chồng lên nhau rồi để trước tim, tương ứng với điểm giữa hai núm vú hoặc khoang liên sườn 4 – 5 bên ngực trái, từ từ ấn sâu xuống khoảng 1/3 cho đến một nửa bề dày lồng ngực, sau đó nới lỏng tay ra. Thao tác này thực hiện 60 lần/phút. Khi ép xuống ngực bệnh nhân sẽ tạo ra một lực cơ học lên tim, tim sẽ có thể co bóp và đưa máu vào trong hệ tuần hoàn, giúp máu lưu thông.
Thứ ba: Hô hấp nhân tạo: Đây là phương pháp khá dễ làm nhưng vô cùng quan trọng, giúp đảm bảo oxy cho bệnh nhân, lưu thông máu. Để nạn nhân nằm ở nơi thoáng đãng, nới rộng quần áo và dây thắt lưng, đệm dưới cổ cho đầu hơi ngửa ra sau để đảm bảo đường hô hấp được thông thoáng, lấy dị vật trong miệng nạn nhân nếu có. Đẩy đầu bệnh nhân về phía sau, nâng hai cằm lên cho hai hàm răng gần như chạm nhau đồng thời lắng nghe hơi thở nạn nhân. Sau đó bịt mũi nạn nhân, dùng miệng ngậm kín miệng nạn nhân thở hai hơi liên tiếp vào miệng nạn nhân. Thời gian dành cho chúng ta không nhiều, vì vậy cần phải tiến hành ngay các phương pháp sơ cứu kịp thời. Trước tình trạng mất ý thức do tim hay bất cứ nguyên nhân nào khác, chúng ta chỉ có 3 phút từ lúc tim ngừng đập đến khi xuất hiện những tổn thương não không hồi phục. Vì thế chúng ta phải ngay lập tức hồi sinh tim cho bệnh nhân.
Thứ tư: Khi xe cấp cứu đến: Khi các nhân viên y tế đến sẽ tiến hành đặt nội khí quản (ống cắm vào cổ họng bệnh nhân để cung cấp oxy), trong lúc đó chúng ta vẫn phải tiến hành ép tim cho đến khi đến bệnh viện. Nếu bệnh nhân vẫn bị ngừng tim (tim không đập), rung tim (tim bị rung nhẹ) thì không thể bơm máu đi được nữa, khi đó phải tiến hành sốc điện ngoài lồng ngực. Sốc điện giống như một báo động mạnh gọi quả tim tỉnh dậy làm việc của nó. Nguồn điện ở máy sốc điện sẽ giật mạnh các cơ tim, tạo thể hoạt động mồi, tạo một lực giúp tim đập trở lại dễ dàng hơn.
Tóm tắt các bước sơ cứu sau khi sốc điện mà tim đập trở lại coi như bệnh nhân cấp cứu thành công. Các phương pháp sơ cứu dù có thực hiện thành công thì tính mạng của bạn cũng luôn bị rình rập bởi nhồi máu cơ tim là căn bệnh khả năng tái phát rất cao. Vì vậy, thực hiện chế độ ăn uống, sinh hoạt điều độ kết hợp với sử dụng các thực phẩm bổ sung là cách tốt nhất để phòng ngừa nhồi máu cơ tim.
Thân mến!
Đau ngực và khu vực xung quanh có phải là nhồi máu cơ tim?
Câu hỏi bởi: Giấu tên
Thưa bác sĩ!
Lúc 23 giờ cháu đi ngủ thì cảm thấy đau vừa phải ở giữa ngực và xung quanh trong vòng trong vòng 1 giờ. Và hôm nay cháu có làm công việc nặng. Xin hỏi bác sĩ đó có phải là triệu chứng của nhồi máu cơ tim không. Hay là do cháu làm quá sức ạ.
Cảm ơn bác sĩ!
Bác sĩ Vũ Thị Lừu
Chào cháu!
Cháu có biểu hiện đau vừa phải ở giữa ngực và xung quanh sau khi làm công việc nặng nhọc cả ngày. Nếu tình trạng này mới xuất hiện thì không đáng lo ngại, có thể chỉ do cháu lao động quá sức, nghỉ ngơi sẽ hết. Nếu sau đó, ngay cả lúc nghỉ ngơi cháu vẫn bị đau thì cần lưu ý.
Thông thường cơn đau ngực chỉ xảy ra trong vài phút hoặc chỉ đau thoáng qua rồi tự khỏi, do đó nếu cơn đau kéo dài quá 15 – 20 phút phải nghĩ đến nhồi máu cơ tim. Nếu tình trạng đau ngực kéo dài cả ngày hay trong nhiều ngày, nhiều tuần, khi đo điện tâm đồ cho kết quả bình thường thì có thể lí do đau không phải do tim mà do một lí do khác như hô hấp hay thần kinh liên sườn… Nói chung, cháu cần theo dõi thêm vài ngày, nếu tình trạng đau vẫn tiếp tục và không cải thiện thì cần đi khám.
Chúc cháu chóng khỏe!
Ông 80 tuổi bị nhồi máu cơ tim, khả năng nói kém liệu có phục hồi không?
Câu hỏi bởi: Giấu tên
Chào bác sĩ.
Ông tôi năm nay 80 tuổi vừa trải qua căn bệnh nhồi máu não hơn 1 tháng. Hiện giờ, ông bị liệt nửa người bên phải và khả năng nói chuyện của ông rất yếu, thỉnh thoảng ông mới nói được một tiếng. Bác sĩ cho tôi hỏi liệu ông tôi có khả năng phục hồi như trước hay không.
Xin cảm ơn.
Dược sĩ Nguyễn Thị Hòa
Chào bạn!
Phục hồi chức năng cho bệnh nhân liệt nửa người sau tai biến mạch não cần lưu ý những điểm sau:
Giai đoạn đầu: Các kỹ thuật vị thế: Bố trí giường nằm, các vị thế nằm đúng theo mẫu phục hồi. Tập vận động thụ động nửa người bên liệt: Khớp vai: Gấp, duỗi,dạng, khép, xoay trong, xoay ngoài. Khớp khuỷu: Gấp, duỗi khuỷu, quay sấp, xoay ngửa cẳng tay. Khớp cổ tay: Gấp, duỗi, nghiêng trong, nghiêng ngoài khớp cổ tay. Các ngón tay: Gấp , duỗi, dạng, khép các ngón tay. Khớp háng: Gấp, duỗi, dạng, khép, xoay trong, xoay ngoài. Khớp gối: Gấp, duỗi. Khớp cổ chân: Gấp, duỗi. Các ngón chân: Gấp, duỗi dạng, khép.
2. Giai đoạn sau:
Tập theo tầm vận động: tập vận động có trợ giúp, vận động chủ động.
Tập vận động ở các tư thế: nằm, ngồi, đứng, đi.
Tập vận động với các dụng cụ trợ giúp.
Tập thực hiện các hoạt động tự chăm sóc (hoạt động trị liệu).
Tập nói, giao tiếp (với những bệnh nhân thất ngôn).
3. Giai đoạn hoà nhập:
Phòng ngừa di chứng và tai biến tái phát.
Cải tạo nhà ở và môi trường xung quanh cho phù hợp với bệnh nhân.
Các dụng cụ trợ giúp cần thiết cho giai đoạn này: trợ giúp đi lại, trợ giúp sinh hoạt, trợ giúp làm việc…
Tham gia các hoạt động hoà nhập cộng đồng: nhóm trợ giúp, hội người tàn tật, tiếp cận các dịch vụ công cộng, các hoạt động của cộng đồng.
Việc làm và thu nhập: khả năng tiếp tục nghề cũ, hoặc bệnh nhân phải học một nghề mới hoặc có những hoạt động gì tạo thu nhập? Điều trị thuốc điều trị theo lí do: thuốc chống tăng huyết áp, thuốc điều hoà đường máu, thuốc chữa trị rối loạn mỡ máu, thuốc điều hoà huyết não v.v… Như vậy tốt nhất bạn nên đưa ông đến chuyên khoa Phục hồi chức năng hoặc y học cổ truyền để chữa trị và phục hồi. Các bác sĩ chuyên khoa sẽ giúp đỡ ông bạn. Tuy nhiên có phục hồi được hay không là phụ thuộc đáp ứng chữa trị của bệnh nhân bạn nhé.
Chúc gia đình sức khỏe!
Theo ViCare