Chế độ ǎn uống của người mẹ có vai trò quyết định đối với sự phát triển của thai nhi. Khi mang thai người mẹ phải ǎn uống cho cả mình và cả bào thai trong bụng. Trong suốt quá trình mang thai người mẹ cần tǎng được từ 9-12kg, trong đó 3 tháng đầu tǎng 1-2kg; 3 tháng giữa tǎng 3-4kg; 3 tháng cuối tǎng 5-6kg. Sự tǎng cân của thai nhi phụ thuộc vào sự tǎng cân của mẹ. Nếu mẹ tǎng cân tốt thì sau 9 tháng mang thai, người mẹ sinh đủ tháng, thai nhi sẽ đạt được 3kg. Mẹ tǎng cân tốt, người mẹ sẽ tích lũy mỡ là nguồn nǎng lượng dự trữ để tạo sữa sau khi sinh. Nếu người mẹ ǎn uống kém, không tǎng đủ cân trong quá trình thai nghén sẽ làm tǎng nguy cơ mẹ bị suy kiệt, cân nặng trẻ sơ sinh thấp (suy dinh dưỡng bào thai). Khi trẻ bị suy dinh dưỡng bào thai việc nuôi dưỡng sẽ rất vất vả, sự phát triển cả về thể chất và tinh thần của trẻ cũng bị ảnh hưởng.
Khi có thai, nhu cầu về nǎng lượng và các chất dinh dưỡng đòi hỏi cao hơn bình thường vì nhu cầu này ngoài đảm bảo cung cấp cho hoạt động của cơ thể, sự thay đổi về sinh lý của mẹ như biến đổi về chuyển hóa, tǎng cân, tǎng khối lượng tuần hoàn, tǎng khối lượng của tử cung, vú... còn cần thiết cho sự phát triển của thai nhi và tạo sữa cho con bú. Như vậy bữa ǎn của bà mẹ mang thai cần tǎng thêm cả về số lượng và chất lượng.
Bữa ǎn của bà mẹ cần có đủ 4 nhóm thực phẩm:
- Nhóm chất bột gồm: gạo, mì, ngô, khoai, sắn
- Nhóm chất đạm gồm: thịt, cá, trứng, tôm cua, đậu đỗ
- Nhóm chất béo gồm: dầu, mỡ, vừng, lạc
- Nhóm vitamin chất khoáng và chất xơ gồm: rau xanh và quả chín
Nhóm chất bột là nguồn cung cấp nǎng lượng chính, tuy nhiên cần ǎn chất bột với một tỉ lệ cân đối với các nhóm khác. Nếu khẩu phần ǎn quá nhiều chất bột thì cũng không tốt cho sức khỏe của mẹ và sự phát triển của thai nhi, nhưng nếu ǎn quá ít chất bột thì sẽ bị thiếu nǎng lượng.
Nhóm chất đạm rất cần thiết cho bà mẹ mang thai. Nhu cầu chất đạm của người mẹ tǎng lên một phần để tổng hợp protein cho cơ thể mẹ, đồng thời còn phải cung cấp protein cho thai nhi và nhau thai hình thành và phát triển. Chất đạm cần cho sự phát triển mọi bộ phận của thai nhi đặc biệt là tế bào não. Các loại thức ǎn động vật như thịt, cá, trứng, sữa, tôm, cua... có nhiều đạm quý cần được ưu tiên. Tôm, cua, cá, ốc, vừa là nguồn đạm vừa là nguồn canxi tốt giúp tạo khung xương vững chắc của bào thai và phòng loãng xương cho người mẹ. Bữa ǎn nên phối hợp cả 2 loại đạm động vật và đạm thực vật, tuy nhiên cũng tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của mỗi người để chọn cho mình loại thức ǎn giàu đạm thích hợp. Nếu có điều kiện thì ǎn thịt, cá, trứng, sữa; nếu ít tiền thì ǎn tôm, cua, cá nhỏ, đậu đỗ để sao cho bữa ǎn của bà mẹ có đủ chất đạm.
Nhóm chất béo cần được bổ sung thêm khi có thai để giúp tạo nǎng lượng dự trữ và gây dựng các tế bào của thai nhi. Ngoài dầu mỡ các thức ǎn như đậu phụ, lạc, vừng là nguồn chất béo tốt giúp ǎn ngon miệng và giúp cơ thể hấp thu các vitamin A, D, E, K là những vitamin tan trong dầu có nhiều chức phận quan trọng đối với cả mẹ và thai.
Bữa ǎn của bà mẹ mang thai không thể thiếu rau xanh, quả chín. Các loại rau, củ, quả: rau ngót, rau cải, rau giền, mồng tơi, rau đay, cà rốt, củ cải, su hào, chuối, xoài, đu đủ, nhãn, na... mùa nào thức nấy là nguồn cung cấp vitamin C, vitamin A, vitamin E giúp bà mẹ tǎng cường sức đề kháng; cung cấp chất sắt, axit folic tham gia vào quá trình tạo máu...
Khi mang thai bà mẹ còn cần uống đủ nước. Lượng nước cần thiết hàng ngày khoảng 1,5 lít. Các loại nước tốt cho cơ thể mẹ là: nước rau, nước quả, nước chín. Không nên sử dụng các loại nước giải khát công nghiệp có lượng đường cao.
Khi mang thai bà mẹ có nguy cơ cao bị thiếu máu dinh dưỡng, do cơ thể cần có đủ lượng máu để nuôi dưỡng cả cơ thể mẹ và con, mà ǎn uống lại cung cấp không đủ các yếu tố để tạo máu. Bệnh thiếu máu có ảnh hưởng nghiêm trọng tới cả mẹ và thai nhi. Ǎn uống hợp lý, đủ dinh dưỡng, giàu chất sắt là biện pháp phòng chống bệnh thiếu máu tốt nhất. Vì thế nên ǎn nhiều các thức ǎn có nhiều sắt như thịt nạc, trứng, tim, gan, bầu dục, đậu đỗ, rau xanh... Ngoài ǎn uống, để phòng chống thiếu máu có hiệu quả bà mẹ cần uống thêm viên sắt với hàm lượng 60mg sắt nguyên tố và 0,4mg folic hàng ngày từ lúc bắt đầu mang thai tới sau khi sinh 1 tháng.
Người mẹ mang thai không nên kiêng khem nhưng cũng cần hạn chế dùng các loại kích thích như rượu, cà phê, thuốc lá, nước chè đặc; giảm ǎn các loại gia vị như ớt, hạt tiêu, tỏi, dấm.
Khi có thai, nhu cầu về nǎng lượng và các chất dinh dưỡng đòi hỏi cao hơn bình thường vì nhu cầu này ngoài đảm bảo cung cấp cho hoạt động của cơ thể, sự thay đổi về sinh lý của mẹ như biến đổi về chuyển hóa, tǎng cân, tǎng khối lượng tuần hoàn, tǎng khối lượng của tử cung, vú... còn cần thiết cho sự phát triển của thai nhi và tạo sữa cho con bú. Như vậy bữa ǎn của bà mẹ mang thai cần tǎng thêm cả về số lượng và chất lượng.
Bữa ǎn của bà mẹ cần có đủ 4 nhóm thực phẩm:
- Nhóm chất bột gồm: gạo, mì, ngô, khoai, sắn
- Nhóm chất đạm gồm: thịt, cá, trứng, tôm cua, đậu đỗ
- Nhóm chất béo gồm: dầu, mỡ, vừng, lạc
- Nhóm vitamin chất khoáng và chất xơ gồm: rau xanh và quả chín
Nhóm chất bột là nguồn cung cấp nǎng lượng chính, tuy nhiên cần ǎn chất bột với một tỉ lệ cân đối với các nhóm khác. Nếu khẩu phần ǎn quá nhiều chất bột thì cũng không tốt cho sức khỏe của mẹ và sự phát triển của thai nhi, nhưng nếu ǎn quá ít chất bột thì sẽ bị thiếu nǎng lượng.
Nhóm chất đạm rất cần thiết cho bà mẹ mang thai. Nhu cầu chất đạm của người mẹ tǎng lên một phần để tổng hợp protein cho cơ thể mẹ, đồng thời còn phải cung cấp protein cho thai nhi và nhau thai hình thành và phát triển. Chất đạm cần cho sự phát triển mọi bộ phận của thai nhi đặc biệt là tế bào não. Các loại thức ǎn động vật như thịt, cá, trứng, sữa, tôm, cua... có nhiều đạm quý cần được ưu tiên. Tôm, cua, cá, ốc, vừa là nguồn đạm vừa là nguồn canxi tốt giúp tạo khung xương vững chắc của bào thai và phòng loãng xương cho người mẹ. Bữa ǎn nên phối hợp cả 2 loại đạm động vật và đạm thực vật, tuy nhiên cũng tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của mỗi người để chọn cho mình loại thức ǎn giàu đạm thích hợp. Nếu có điều kiện thì ǎn thịt, cá, trứng, sữa; nếu ít tiền thì ǎn tôm, cua, cá nhỏ, đậu đỗ để sao cho bữa ǎn của bà mẹ có đủ chất đạm.
Nhóm chất béo cần được bổ sung thêm khi có thai để giúp tạo nǎng lượng dự trữ và gây dựng các tế bào của thai nhi. Ngoài dầu mỡ các thức ǎn như đậu phụ, lạc, vừng là nguồn chất béo tốt giúp ǎn ngon miệng và giúp cơ thể hấp thu các vitamin A, D, E, K là những vitamin tan trong dầu có nhiều chức phận quan trọng đối với cả mẹ và thai.
Bữa ǎn của bà mẹ mang thai không thể thiếu rau xanh, quả chín. Các loại rau, củ, quả: rau ngót, rau cải, rau giền, mồng tơi, rau đay, cà rốt, củ cải, su hào, chuối, xoài, đu đủ, nhãn, na... mùa nào thức nấy là nguồn cung cấp vitamin C, vitamin A, vitamin E giúp bà mẹ tǎng cường sức đề kháng; cung cấp chất sắt, axit folic tham gia vào quá trình tạo máu...
Khi mang thai bà mẹ còn cần uống đủ nước. Lượng nước cần thiết hàng ngày khoảng 1,5 lít. Các loại nước tốt cho cơ thể mẹ là: nước rau, nước quả, nước chín. Không nên sử dụng các loại nước giải khát công nghiệp có lượng đường cao.
Khi mang thai bà mẹ có nguy cơ cao bị thiếu máu dinh dưỡng, do cơ thể cần có đủ lượng máu để nuôi dưỡng cả cơ thể mẹ và con, mà ǎn uống lại cung cấp không đủ các yếu tố để tạo máu. Bệnh thiếu máu có ảnh hưởng nghiêm trọng tới cả mẹ và thai nhi. Ǎn uống hợp lý, đủ dinh dưỡng, giàu chất sắt là biện pháp phòng chống bệnh thiếu máu tốt nhất. Vì thế nên ǎn nhiều các thức ǎn có nhiều sắt như thịt nạc, trứng, tim, gan, bầu dục, đậu đỗ, rau xanh... Ngoài ǎn uống, để phòng chống thiếu máu có hiệu quả bà mẹ cần uống thêm viên sắt với hàm lượng 60mg sắt nguyên tố và 0,4mg folic hàng ngày từ lúc bắt đầu mang thai tới sau khi sinh 1 tháng.
Người mẹ mang thai không nên kiêng khem nhưng cũng cần hạn chế dùng các loại kích thích như rượu, cà phê, thuốc lá, nước chè đặc; giảm ǎn các loại gia vị như ớt, hạt tiêu, tỏi, dấm.