Bệnh rubella với nhiều tên gọi khác nhau, được bác sĩ người Đức mô tả lần đầu vào năm 1814 nên còn được gọi là bệnh “Sởi Đức” hay một tên khác theo nghĩa tiếng Pháp bệnh rubeole.
Bệnh có mặt và lưu hành trên toàn thế giới, thường xuất hiện vào mùa đông xuân, có thể xảy ra thành dịch, nhất là ở trẻ em, trong đó có phụ nữ đang mang thai. Tuy bệnh ít có biến chứng trầm trọng, không gây chết người, nhưng để lại di chứng hết sức nặng nề, đó là có khả năng gây dị tật bẩm sinh ở thai nhi. Bệnh do virút gây nên, có tên khoa học là rubella thuộc họ Togavirus chủng rubivirus, được phân lập vào năm 1962, virút rubella sống yếu ở môi trường bên ngoài, dễ bị tiêu diệt bởi các chất sát khuẩn thông thường như: formol, acid yếu, nước sôi… Bệnh lây truyền dễ dàng từ người này sang người khác qua những giọt nước bọt từ miệng khi ho, khi nói chuyện, khi hắt hơi. Bệnh cũng có thể lây truyền qua tiếp xúc gián tiếp qua các vật dụng như: dùng chung khăn mặt, bàn chải đánh răng, đồ chơi, qua ly chén ăn uống chung… Sự lây truyền có thể xảy ra 1 tuần trước khi phát ban và kéo dài đến 4 ngày sau khi hết ban.
Bệnh diễn tiến qua 3 thời kỳ. Thời kỳ ủ bệnh, thường kéo dài từ 10 – 20 ngày sau khi tiếp xúc với người. Thời gian này tuy nhiễm virút nhưng cơ thể hoàn toàn khỏe mạnh. Tiếp theo là thời kỳ toàn phát, người bệnh sẽ có những biểu hiện như sốt nhẹ trên 37,50C kèm theo đau đầu, mệt mỏi, chảy mũi trong, đau họng, đôi khi có đỏ mắt sau đó sẽ phát ban bắt đầu trên mặt và lan xuống dưới. Khi phát ban lan xuống người thì ở mặt thường hết. Phát ban là dấu hiệu đặc trưng của bệnh, nổi từng đốm lan tỏa, xuất hiện đầu tiên ở mặt, sau đó lan ra thân mình, thường không thấy ở lòng bàn tay và bàn chân. Người bệnh kèm theo sưng đau hạch, thường ở mé sau cổ hoặc cạnh tai, đau khớp. Các triệu chứng bệnh trên thường kéo dài từ 3 - 4 ngày rồi tự khỏi, riêng triệu chứng đau khớp có thể kéo dài lâu hơn.
Sau khi khỏi bệnh, người bệnh sẽ có miễn dịch suốt đời với bệnh. Nếu phụ nữ có thai bị bệnh, đặc biệt là 3 tháng đầu thai kỳ, thường gây ra những biến chứng nghiêm trọng bao gồm sảy thai, quái thai, sinh non, suy dinh dưỡng bào thai và hội chứng rubella bẩm sinh. Biểu hiện thường gặp nhất của rubella bẩm sinh là giảm sức nghe, có thể điếc, đục thủy tinh thể, có thể tổn thương mắt gây mù, bệnh tim bẩm sinh, chậm phát triển tâm thần, chậm lớn.
Tóm lại, di chứng do rubella để lại cho thai nhi là hết sức nặng nề. Vì vậy trước khi chuẩn bị làm mẹ, cần chủ động phòng ngừa bằng cách tạo miễn dịch chủ động. Nhưng trước hết, cần làm xét nghiệm huyết thanh để xác định cơ thể có được miễn dịch chưa. Nếu chưa thì chích ngừa với thời gian tối thiểu là 3 tháng. Sau khi tiêm ngừa vắc-xin mới được phép mang thai. Sau khi tiêm vắc-xin sẽ phòng được bệnh trong khoảng thời gian 10 - 16 năm hoặc có thể cả đời. Thuốc thường dùng hiện nay là vắcxin MMR (measle, mumps, rubella), hay PRIORIX là vắc-xin tổng hợp ngừa 3 bệnh: sởi - quai bị - rubella). Phụ nữ trong độ tuổi sinh sản tiêm 1 liều duy nhất .
(Sức khỏe đời sống)
Bệnh có mặt và lưu hành trên toàn thế giới, thường xuất hiện vào mùa đông xuân, có thể xảy ra thành dịch, nhất là ở trẻ em, trong đó có phụ nữ đang mang thai. Tuy bệnh ít có biến chứng trầm trọng, không gây chết người, nhưng để lại di chứng hết sức nặng nề, đó là có khả năng gây dị tật bẩm sinh ở thai nhi. Bệnh do virút gây nên, có tên khoa học là rubella thuộc họ Togavirus chủng rubivirus, được phân lập vào năm 1962, virút rubella sống yếu ở môi trường bên ngoài, dễ bị tiêu diệt bởi các chất sát khuẩn thông thường như: formol, acid yếu, nước sôi… Bệnh lây truyền dễ dàng từ người này sang người khác qua những giọt nước bọt từ miệng khi ho, khi nói chuyện, khi hắt hơi. Bệnh cũng có thể lây truyền qua tiếp xúc gián tiếp qua các vật dụng như: dùng chung khăn mặt, bàn chải đánh răng, đồ chơi, qua ly chén ăn uống chung… Sự lây truyền có thể xảy ra 1 tuần trước khi phát ban và kéo dài đến 4 ngày sau khi hết ban.
Bệnh diễn tiến qua 3 thời kỳ. Thời kỳ ủ bệnh, thường kéo dài từ 10 – 20 ngày sau khi tiếp xúc với người. Thời gian này tuy nhiễm virút nhưng cơ thể hoàn toàn khỏe mạnh. Tiếp theo là thời kỳ toàn phát, người bệnh sẽ có những biểu hiện như sốt nhẹ trên 37,50C kèm theo đau đầu, mệt mỏi, chảy mũi trong, đau họng, đôi khi có đỏ mắt sau đó sẽ phát ban bắt đầu trên mặt và lan xuống dưới. Khi phát ban lan xuống người thì ở mặt thường hết. Phát ban là dấu hiệu đặc trưng của bệnh, nổi từng đốm lan tỏa, xuất hiện đầu tiên ở mặt, sau đó lan ra thân mình, thường không thấy ở lòng bàn tay và bàn chân. Người bệnh kèm theo sưng đau hạch, thường ở mé sau cổ hoặc cạnh tai, đau khớp. Các triệu chứng bệnh trên thường kéo dài từ 3 - 4 ngày rồi tự khỏi, riêng triệu chứng đau khớp có thể kéo dài lâu hơn.
Sau khi khỏi bệnh, người bệnh sẽ có miễn dịch suốt đời với bệnh. Nếu phụ nữ có thai bị bệnh, đặc biệt là 3 tháng đầu thai kỳ, thường gây ra những biến chứng nghiêm trọng bao gồm sảy thai, quái thai, sinh non, suy dinh dưỡng bào thai và hội chứng rubella bẩm sinh. Biểu hiện thường gặp nhất của rubella bẩm sinh là giảm sức nghe, có thể điếc, đục thủy tinh thể, có thể tổn thương mắt gây mù, bệnh tim bẩm sinh, chậm phát triển tâm thần, chậm lớn.
Tóm lại, di chứng do rubella để lại cho thai nhi là hết sức nặng nề. Vì vậy trước khi chuẩn bị làm mẹ, cần chủ động phòng ngừa bằng cách tạo miễn dịch chủ động. Nhưng trước hết, cần làm xét nghiệm huyết thanh để xác định cơ thể có được miễn dịch chưa. Nếu chưa thì chích ngừa với thời gian tối thiểu là 3 tháng. Sau khi tiêm ngừa vắc-xin mới được phép mang thai. Sau khi tiêm vắc-xin sẽ phòng được bệnh trong khoảng thời gian 10 - 16 năm hoặc có thể cả đời. Thuốc thường dùng hiện nay là vắcxin MMR (measle, mumps, rubella), hay PRIORIX là vắc-xin tổng hợp ngừa 3 bệnh: sởi - quai bị - rubella). Phụ nữ trong độ tuổi sinh sản tiêm 1 liều duy nhất .
(Sức khỏe đời sống)