Hiểu đúng về viêm đường tiết niệu
Không giống như nhiều bệnh khác, viêm đường tiết niệu là bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi (từ trẻ em đến người cao tuổi), xảy ra ở cả nam và nữ nhưng nữ nhiều hơn. Với bệnh này, vệ sinh phòng bệnh đặc biệt có ý nghĩa quan trọng. Theo số liệu thống kê mới nhất cho thấy, ở phụ nữ trưởng thành có tới trên 50% quãng đời của họ phải đi khám và điều trị căn bệnh viêm đường tiết niệu. Trong số các bệnh tiết niệu thì bệnh viêm đường tiết niệu là bệnh nhiễm trùng hay gặp đứng hàng thứ hai ở người trưởng thành, chỉ sau nhiễm trùng đường hô hấp. Có khoảng gần 11% con gái dưới 18 tuổi bị viêm đường tiết niệu tính chỉ trong 1 năm và gần 20% với độ tuổi từ 18 đến 24. Ở trẻ em, tỷ lệ bệnh cũng không nhỏ. Tuỳ thuộc vào giới tính và độ tuổi mà từng đối tượng có tỷ lệ mắc bệnh khác nhau. Nhưng nhìn chung viêm đường tiết niệu trẻ em có tỷ lệ mắc dao động từ 2,4 đến 2,8%. Hay gặp nhất là ở độ tuổi dưới 1 tuổi (do vệ sinh kém). Tỷ lệ này giảm dần ở những lứa tuổi lớn hơn và chỉ khoảng gần 2% ở những trẻ em lớn hơn 2 tuổi. Bệnh viêm đường tiết niệu còn là một bệnh đáng ngại nhất ở người cao tuổi bị liệt hoặc tai biến mạch máu não do tốc độ bài xuất nước tiểu giảm, độ pH giảm axit lại do giảm vận động nên nó gần như là biến chứng song hành. Qua những dẫn liệu trên, có thể thấy nhiễm trùng đường tiết niệu là một bệnh cần được chú ý trong chiến lược phòng chống bệnh tật bảo vệ sức khoẻ.
Nguyên nhân nào gây ra?
Nguyên nhân gây ra bệnh viêm đường tiết niệu chính là vi khuẩn (có khoảng 75-80% trường hợp viêm đường tiết niệu là do vi khuẩn gây ra). Vi khuẩn thường gặp nhất là E.coli, một vi khuẩn điển hình nhất ở trong ruột. Khi chúng ta vệ sinh cơ quan sinh dục không tốt thì dẫn đến lây lan vi khuẩn từ hậu môn sang đường sinh dục và nhiễm trùng niệu xảy ra. Điều này đặc biệt đúng với nữ giới do những thói quen vệ sinh đặc thù như đóng băng vệ sinh, dịch âm đạo, cửa niệu dục mở thông. Với nam giới thì khác, vi khuẩn đường tiêu hoá khó xâm nhập nhưng khi bao quy đầu không được vệ sinh thì đây cũng là nguyên nhân gây viêm đường tiết niệu. Trong danh sách các vi khuẩn gây bệnh viêm đường tiết niệu, ngoài vi khuẩn E. coli còn có vi khuẩn Klebsiella species, Proteus, tụ cầu khuẩn, liên cầu khuẩn, nấm, đơn bào.. Đó là nói tới viêm đường tiết niệu do công tác vệ sinh. Còn nếu đề cập tới viêm đường tiết niệu như một biến chứng trong các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục thì chúng ta không thể không nhắc tới vi khuẩn lậu, vi khuẩn giang mai. Đây là những vi khuẩn lây lan mức độ mạnh qua quan hệ tình dục không an toàn. Vi khuẩn cũng có thể xuất hiện và gây viêm trong một số bệnh khác của hệ tiết niệu như sỏi, u hay nang.
Dấu hiệu nhận biết:
Bệnh viêm đường tiết niệu có biểu hiện và dấu hiệu nhận dạng khác nhau tuỳ thuộc vào đoạn đường tiết niệu bị bệnh. Nhưng nhìn chung thì có bốn dấu hiệu cơ bản: sốt, đau bụng phần thắt lưng, đái buốt-đái dắt, đái mủ-đái máu. Sốt trong viêm đường tiết niệu mang tính chất sốt cao, âm ỉ, liên tục và thỉnh thoảng tạo thành cơn. Sốt thường không chỉ kéo dài 1-2 ngày mà thường là phải từ 5 ngày trở lên. Nếu không điều trị kịp thời thì sốt còn có thể lâu hơn vì đây là một kiểu viêm ở nội tạng. Mặt khác, lại do vi khuẩn thường sinh sản và tạo một số lượng đủ mạnh trước khi biểu hiện bệnh được phát ra, nên không dễ dàng cắt dứt điểm hết sốt ngay trong những ngày đầu. Nhiều khi người bệnh không có các dấu hiệu khác nhưng sốt thì bao giờ cũng có và trở thành một dấu hiệu đặc trưng không thể thiếu. Vấn đề chỉ là sốt cao hay sốt nhẹ mà thôi. Kèm theo sốt là dấu hiệu đau bụng phần thắt lưng. Dấu hiệu này có thể không có nếu như thận và niệu quản không bị viêm. Nếu như đối tượng bị viêm bàng quang hoặc viêm niệu quản đoạn dưới thì lại đau bụng vùng dưới rốn là chủ yếu. Nhưng dù là đau bụng ở vị trí nào thì chúng đều có đặc điểm là đau âm ỉ và kéo dài liên tục. Đau là do nước tiểu làm thay đổi môi trường tại nơi bị viêm, do phù nề mô viêm hoặc cũng có thể là do mô viêm chèn ép vào các nội tạng xung quanh. Mặc dù đau không rõ ràng như trong bệnh sỏi tiết niệu nhưng đau trong viêm đường tiết niệu cũng có thể làm rối loạn giấc ngủ của người bệnh. Khi người bệnh ở trong giai đoạn viêm niệu đạo hoặc viêm bàng quang thì người bệnh còn có hai dấu hiệu rất đặc trưng là đái buốt và đái dắt. Đái buốt là cảm giác đau, buốt, thắt khi đi tiểu. Nó có thể xuất hiện ở đầu bãi, có thể xuất hiện ở cuối bãi nhưng thường không bao giờ xuất hiện ở giữa bãi. Đái buốt là do dòng nước tiểu đi qua và cọ xát và mô bị viêm trên đường nước tiểu đi ra. Nó cũng có thể là do sự co thắt của cơ trong hệ thống đường tiết niệu tại chỗ bị viêm gây ra. Nhưng thường thì đái buốt ở đầu bãi hay liên quan tới viêm niệu đạo còn đái buốt ở cuối bãi liên quan đến bàng quang nhiều hơn. Thêm vào trong bảng dấu hiệu nhận biết là đái mủ và đái máu. Mủ và máu là những thành phần ngoại lai không có trong nước tiểu. Nó chỉ xuất hiện trong bệnh nhiễm trùng đường tiểu và một số bệnh khác. Khi xuất hiện máu trong nước tiểu thì có nghĩa là bề mặt đường tiểu đang bị thương và thông thương với mạch máu. Còn khi có mủ thì điều đó có nghĩa là ổ bệnh đang trong giai đoạn tiến triển mạnh, dấu hiệu nặng hoặc là sắp sang giai đoạn mãn tính. Không phải cứ nhìn thấy máu và mủ trong nước tiểu thì mới chắc chắn là đái máu, đái mủ. Nhiều khi mắt thường chúng ta không nhìn thấy được nhưng thực tế vẫn có và chúng ta chỉ phát hiện ra được bằng xét nghiệm nước tiểu mà thôi. Ngoài các dấu hiệu đặc thù định khu như trên, viêm đường niệu còn một số dấu hiệu khác như ngứa ngáy bộ phận sinh dục, đau rát âm hộ, đỏ rát âm đạo, ra khí hư, rối loạn kinh nguyệt ở phụ nữ, dịch mủ vào sáng sớm mai ở nam giới.
Phòng và trị bệnh viêm tiết niệu như thế nào?
Kháng sinh là một thuốc đặc hiệu và có ý nghĩa nhất trong giải quyết triệt để bệnh này. Ngoài kháng sinh chúng ta cần phải dùng một số thuốc khác có tác dụng giải quyết nguyên nhân như thuốc điều trị sỏi, thuốc sát trùng bề mặt đường tiết niệu. Kháng sinh dùng trong điều trị viêm đường tiết niệu rất đa dạng, có thể là dùng viên uống, đường tiêm hoặc viên đặt dành riêng cho nữ giới. Dùng kháng sinh nào, liều lượng bao nhiêu là tuỳ thuộc vào chủng vi khuẩn gây bệnh và sự nhạy cảm kháng sinh mà chúng có. Nhưng thường thì có 3 nhóm kháng sinh được yêu thích: quinolon, beta lactam và kháng sinh nhóm kháng chuyển hoá. Ở những bệnh nhân bị bệnh điển hình, thời gian dùng kháng sinh khoảng 2 tuần mới dứt điểm được với viêm đường tiết niệu. Trong điều trị, xin lưu ý thận trọng với những kháng sinh thuộc nhóm aminoglycosid vì nhóm kháng sinh này độc với thận. Và cũng không nên dùng nhóm quinolon cho trẻ em vì chúng có thể gây biến chứng hỏng xương sụn. Để phòng chống bệnh nhiễm trùng đường tiểu, chúng ta cần đặc biệt chú ý tới công tác vệ sinh. Lời khuyên tốt nhất với nữ giới là nên rửa “vùng kín” 2 lần/ngày vào buổi sáng trước khi đi làm và buổi tối trước khi ngủ. Còn nam giới thì phải rửa ít nhất 1 lần/ngày vào buổi tối. Rửa ở đây là phải rửa kỹ và rửa sạch. Chúng ta phải rửa khe kẽ bên ngoài và khe kẽ bên trong. Ví dụ như nam giới thì phải lộn bao quy đầu và cọ sạch phía trong hết cặn bẩn thì mới có giá trị phòng bệnh. Nếu chúng ta chỉ cọ rửa bên ngoài thì e rằng có cũng như không. Ở trẻ em, nhất là trẻ sơ sinh và trẻ dưới 1 tuổi phải chú ý thay tã bỉm cho bé khi bé tiểu tiện hay đại tiện (đặc biệt là đại tiện). Khi thay nhớ phải dùng nước sạch để tráng sạch nếu không muốn bị hăm kẽ sinh dục và nhiễm trùng đường tiết niệu.
Không giống như nhiều bệnh khác, viêm đường tiết niệu là bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi (từ trẻ em đến người cao tuổi), xảy ra ở cả nam và nữ nhưng nữ nhiều hơn. Với bệnh này, vệ sinh phòng bệnh đặc biệt có ý nghĩa quan trọng. Theo số liệu thống kê mới nhất cho thấy, ở phụ nữ trưởng thành có tới trên 50% quãng đời của họ phải đi khám và điều trị căn bệnh viêm đường tiết niệu. Trong số các bệnh tiết niệu thì bệnh viêm đường tiết niệu là bệnh nhiễm trùng hay gặp đứng hàng thứ hai ở người trưởng thành, chỉ sau nhiễm trùng đường hô hấp. Có khoảng gần 11% con gái dưới 18 tuổi bị viêm đường tiết niệu tính chỉ trong 1 năm và gần 20% với độ tuổi từ 18 đến 24. Ở trẻ em, tỷ lệ bệnh cũng không nhỏ. Tuỳ thuộc vào giới tính và độ tuổi mà từng đối tượng có tỷ lệ mắc bệnh khác nhau. Nhưng nhìn chung viêm đường tiết niệu trẻ em có tỷ lệ mắc dao động từ 2,4 đến 2,8%. Hay gặp nhất là ở độ tuổi dưới 1 tuổi (do vệ sinh kém). Tỷ lệ này giảm dần ở những lứa tuổi lớn hơn và chỉ khoảng gần 2% ở những trẻ em lớn hơn 2 tuổi. Bệnh viêm đường tiết niệu còn là một bệnh đáng ngại nhất ở người cao tuổi bị liệt hoặc tai biến mạch máu não do tốc độ bài xuất nước tiểu giảm, độ pH giảm axit lại do giảm vận động nên nó gần như là biến chứng song hành. Qua những dẫn liệu trên, có thể thấy nhiễm trùng đường tiết niệu là một bệnh cần được chú ý trong chiến lược phòng chống bệnh tật bảo vệ sức khoẻ.
Nguyên nhân nào gây ra?
Nguyên nhân gây ra bệnh viêm đường tiết niệu chính là vi khuẩn (có khoảng 75-80% trường hợp viêm đường tiết niệu là do vi khuẩn gây ra). Vi khuẩn thường gặp nhất là E.coli, một vi khuẩn điển hình nhất ở trong ruột. Khi chúng ta vệ sinh cơ quan sinh dục không tốt thì dẫn đến lây lan vi khuẩn từ hậu môn sang đường sinh dục và nhiễm trùng niệu xảy ra. Điều này đặc biệt đúng với nữ giới do những thói quen vệ sinh đặc thù như đóng băng vệ sinh, dịch âm đạo, cửa niệu dục mở thông. Với nam giới thì khác, vi khuẩn đường tiêu hoá khó xâm nhập nhưng khi bao quy đầu không được vệ sinh thì đây cũng là nguyên nhân gây viêm đường tiết niệu. Trong danh sách các vi khuẩn gây bệnh viêm đường tiết niệu, ngoài vi khuẩn E. coli còn có vi khuẩn Klebsiella species, Proteus, tụ cầu khuẩn, liên cầu khuẩn, nấm, đơn bào.. Đó là nói tới viêm đường tiết niệu do công tác vệ sinh. Còn nếu đề cập tới viêm đường tiết niệu như một biến chứng trong các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục thì chúng ta không thể không nhắc tới vi khuẩn lậu, vi khuẩn giang mai. Đây là những vi khuẩn lây lan mức độ mạnh qua quan hệ tình dục không an toàn. Vi khuẩn cũng có thể xuất hiện và gây viêm trong một số bệnh khác của hệ tiết niệu như sỏi, u hay nang.
Dấu hiệu nhận biết:
Bệnh viêm đường tiết niệu có biểu hiện và dấu hiệu nhận dạng khác nhau tuỳ thuộc vào đoạn đường tiết niệu bị bệnh. Nhưng nhìn chung thì có bốn dấu hiệu cơ bản: sốt, đau bụng phần thắt lưng, đái buốt-đái dắt, đái mủ-đái máu. Sốt trong viêm đường tiết niệu mang tính chất sốt cao, âm ỉ, liên tục và thỉnh thoảng tạo thành cơn. Sốt thường không chỉ kéo dài 1-2 ngày mà thường là phải từ 5 ngày trở lên. Nếu không điều trị kịp thời thì sốt còn có thể lâu hơn vì đây là một kiểu viêm ở nội tạng. Mặt khác, lại do vi khuẩn thường sinh sản và tạo một số lượng đủ mạnh trước khi biểu hiện bệnh được phát ra, nên không dễ dàng cắt dứt điểm hết sốt ngay trong những ngày đầu. Nhiều khi người bệnh không có các dấu hiệu khác nhưng sốt thì bao giờ cũng có và trở thành một dấu hiệu đặc trưng không thể thiếu. Vấn đề chỉ là sốt cao hay sốt nhẹ mà thôi. Kèm theo sốt là dấu hiệu đau bụng phần thắt lưng. Dấu hiệu này có thể không có nếu như thận và niệu quản không bị viêm. Nếu như đối tượng bị viêm bàng quang hoặc viêm niệu quản đoạn dưới thì lại đau bụng vùng dưới rốn là chủ yếu. Nhưng dù là đau bụng ở vị trí nào thì chúng đều có đặc điểm là đau âm ỉ và kéo dài liên tục. Đau là do nước tiểu làm thay đổi môi trường tại nơi bị viêm, do phù nề mô viêm hoặc cũng có thể là do mô viêm chèn ép vào các nội tạng xung quanh. Mặc dù đau không rõ ràng như trong bệnh sỏi tiết niệu nhưng đau trong viêm đường tiết niệu cũng có thể làm rối loạn giấc ngủ của người bệnh. Khi người bệnh ở trong giai đoạn viêm niệu đạo hoặc viêm bàng quang thì người bệnh còn có hai dấu hiệu rất đặc trưng là đái buốt và đái dắt. Đái buốt là cảm giác đau, buốt, thắt khi đi tiểu. Nó có thể xuất hiện ở đầu bãi, có thể xuất hiện ở cuối bãi nhưng thường không bao giờ xuất hiện ở giữa bãi. Đái buốt là do dòng nước tiểu đi qua và cọ xát và mô bị viêm trên đường nước tiểu đi ra. Nó cũng có thể là do sự co thắt của cơ trong hệ thống đường tiết niệu tại chỗ bị viêm gây ra. Nhưng thường thì đái buốt ở đầu bãi hay liên quan tới viêm niệu đạo còn đái buốt ở cuối bãi liên quan đến bàng quang nhiều hơn. Thêm vào trong bảng dấu hiệu nhận biết là đái mủ và đái máu. Mủ và máu là những thành phần ngoại lai không có trong nước tiểu. Nó chỉ xuất hiện trong bệnh nhiễm trùng đường tiểu và một số bệnh khác. Khi xuất hiện máu trong nước tiểu thì có nghĩa là bề mặt đường tiểu đang bị thương và thông thương với mạch máu. Còn khi có mủ thì điều đó có nghĩa là ổ bệnh đang trong giai đoạn tiến triển mạnh, dấu hiệu nặng hoặc là sắp sang giai đoạn mãn tính. Không phải cứ nhìn thấy máu và mủ trong nước tiểu thì mới chắc chắn là đái máu, đái mủ. Nhiều khi mắt thường chúng ta không nhìn thấy được nhưng thực tế vẫn có và chúng ta chỉ phát hiện ra được bằng xét nghiệm nước tiểu mà thôi. Ngoài các dấu hiệu đặc thù định khu như trên, viêm đường niệu còn một số dấu hiệu khác như ngứa ngáy bộ phận sinh dục, đau rát âm hộ, đỏ rát âm đạo, ra khí hư, rối loạn kinh nguyệt ở phụ nữ, dịch mủ vào sáng sớm mai ở nam giới.
Phòng và trị bệnh viêm tiết niệu như thế nào?
Kháng sinh là một thuốc đặc hiệu và có ý nghĩa nhất trong giải quyết triệt để bệnh này. Ngoài kháng sinh chúng ta cần phải dùng một số thuốc khác có tác dụng giải quyết nguyên nhân như thuốc điều trị sỏi, thuốc sát trùng bề mặt đường tiết niệu. Kháng sinh dùng trong điều trị viêm đường tiết niệu rất đa dạng, có thể là dùng viên uống, đường tiêm hoặc viên đặt dành riêng cho nữ giới. Dùng kháng sinh nào, liều lượng bao nhiêu là tuỳ thuộc vào chủng vi khuẩn gây bệnh và sự nhạy cảm kháng sinh mà chúng có. Nhưng thường thì có 3 nhóm kháng sinh được yêu thích: quinolon, beta lactam và kháng sinh nhóm kháng chuyển hoá. Ở những bệnh nhân bị bệnh điển hình, thời gian dùng kháng sinh khoảng 2 tuần mới dứt điểm được với viêm đường tiết niệu. Trong điều trị, xin lưu ý thận trọng với những kháng sinh thuộc nhóm aminoglycosid vì nhóm kháng sinh này độc với thận. Và cũng không nên dùng nhóm quinolon cho trẻ em vì chúng có thể gây biến chứng hỏng xương sụn. Để phòng chống bệnh nhiễm trùng đường tiểu, chúng ta cần đặc biệt chú ý tới công tác vệ sinh. Lời khuyên tốt nhất với nữ giới là nên rửa “vùng kín” 2 lần/ngày vào buổi sáng trước khi đi làm và buổi tối trước khi ngủ. Còn nam giới thì phải rửa ít nhất 1 lần/ngày vào buổi tối. Rửa ở đây là phải rửa kỹ và rửa sạch. Chúng ta phải rửa khe kẽ bên ngoài và khe kẽ bên trong. Ví dụ như nam giới thì phải lộn bao quy đầu và cọ sạch phía trong hết cặn bẩn thì mới có giá trị phòng bệnh. Nếu chúng ta chỉ cọ rửa bên ngoài thì e rằng có cũng như không. Ở trẻ em, nhất là trẻ sơ sinh và trẻ dưới 1 tuổi phải chú ý thay tã bỉm cho bé khi bé tiểu tiện hay đại tiện (đặc biệt là đại tiện). Khi thay nhớ phải dùng nước sạch để tráng sạch nếu không muốn bị hăm kẽ sinh dục và nhiễm trùng đường tiết niệu.
Nguồn:www.baithach.vn
Sửa lần cuối: