Trên thế giới, có khoảng 1,6 tỷ người sống trong vùng thiếu i-ốt, tỷ lệ bướu cổ toàn cầu ước đoán khoảng 12%, tương đương khoảng 655 triệu người. Số người mắc bướu cổ nhiều nhất là ở châu Á, châu Phi. Vùng Đông Nam Á có 486 triệu người sống trong vùng có nguy cơ thiếu i-ốt, trong đó khoảng 175 triệu người bị bướu cổ, chiếm 26,7% số người bị bướu cổ trên thế giới.
[h=2]Tầm quan trọng của i-ốt với phụ nữ có thai[/h] I-ốt là một vi chất dinh dưỡng , mặc dù chỉ cần một lượng rất nhỏ nhưng cần thiết cho sự phát triển cơ thể. Cơ thể sử dụng i-ốt để tổng hợp nên hormon tuyến giáp . Ở vùng thiếu i-ốt, giảm tổng hợp hormon tuyến giáp gây ảnh hưởng đến sự phát triển cả thể chất và tinh thần. Tác động của thiếu i-ốt thấy rõ ở giai đoạn phát triển cơ thể.
Bướu cổ và đần độn là hai biểu hiện hay gặp nhất liên quan đến thiếu i-ốt. Bướu cổ có thể xuất hiện ở bất kỳ giai đoạn nào trong cuộc đời, trong khi đó, đần độn xuất hiện ngay từ lúc bào thai nếu người mẹ bị thiếu i-ốt nặng. Các biểu hiện này chỉ là phần nổi của tảng băng chìm, vì thế thuật ngữ "các rối loạn thiếu i-ốt" mô tả đầy đủ hơn tác hại do thiếu i-ốt như: các khuyết tật về thần kinh , tâm thần, suy giảm hoạt động chức năng hệ thần kinh , giảm sự phát triển hệ thần kinh của bào thai, trẻ nhỏ.
Trẻ em và phụ nữ tuổi sinh đẻ là đối tượng đích, có nguy cơ cao bị thiếu i-ốt, hậu quả do thiếu i-ốt ở đối tượng này là nghiêm trọng, vì hormon tuyến giáp cần thiết cho sự phát triển của bào thai và sau đẻ. Hơn nữa, sự hư hại hệ thần kinh ở bào thai và trẻ nhỏ do thiếu i-ốt nặng và kéo dài là hậu quả không thể đảo ngược được .
[h=2]Vì sao phụ nữ mang thai cần bổ sung i-ốt?[/h] Phụ nữ độ tuổi sinh đẻ là đối tượng đặc biệt nhạy cảm với tình hình thiếu hụt i-ốt, khi người mẹ mang thai , nhu cầu i-ốt tăng lên để đáp ứng nhu cầu hormon tuyến giáp cho mẹ và sự phát triển bào thai. Khi mẹ thiếu i-ốt, sự phát triển bào thai bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đặc biệt là bộ não của đứa trẻ. Người ta đã chứng minh, thiếu i-ốt ở mẹ từ mức trung bình đến nặng có thể gây chậm phát triển não của thai nhi và sinh ra đứa trẻ chậm phát triển trí tuệ, thậm trí đần độn và/hoặc mang khuyết tật.
Do tầm quan trọng và nhạy cảm của thiếu i-ốt đối với bà mẹ đang mang thai, nuôi con bú, năm 2007, WHO/UNICEF/ICCIDD khuyến cáo sử dụng chỉ số i-ốt niệu của bà mẹ mang thai và nuôi con bú là một chỉ tiêu bổ sung chính thức cho bộ chỉ tiêu phản ánh tình trạng thu nhận i-ốt khi một quốc gia hay khu vực đạt tới trạng thái thanh toán bền vững các rối loạn thiếu i-ốt.
Vì tầm quan trọng này, WHO/UNICEF/ICCIDD khuyến cáo cần có giải pháp tạm thời để bảo vệ nhóm bà mẹ mang thai khi phát hiện mức i-ốt niệu dưới 50mcg/l. Điều này đặc biệt cần thiết khi tình trạng i-ốt niệu thấp xảy ra ở các khu vực mà chương trình không đạt được nhiều tiến triển trong những năm gần đó. Theo khuyến nghị này, cung cấp i-ốt bổ sung dạng viên nang nên cần được đặt ra ngay như một giải pháp tạm thời bảo vệ nhóm phụ nữ mang thai ở miền Tây Nam Bộ và TP.HCM, nơi mà các số liệu cho thấy mức i-ốt niệu trung vị luôn ở mức rất thấp (khoảng 50mcg/l) .
Bướu cổ và đần độn là hai biểu hiện hay gặp nhất liên quan đến thiếu i-ốt. Bướu cổ có thể xuất hiện ở bất kỳ giai đoạn nào trong cuộc đời, trong khi đó, đần độn xuất hiện ngay từ lúc bào thai nếu người mẹ bị thiếu i-ốt nặng. Các biểu hiện này chỉ là phần nổi của tảng băng chìm, vì thế thuật ngữ "các rối loạn thiếu i-ốt" mô tả đầy đủ hơn tác hại do thiếu i-ốt như: các khuyết tật về thần kinh , tâm thần, suy giảm hoạt động chức năng hệ thần kinh , giảm sự phát triển hệ thần kinh của bào thai, trẻ nhỏ.
Trẻ em và phụ nữ tuổi sinh đẻ là đối tượng đích, có nguy cơ cao bị thiếu i-ốt, hậu quả do thiếu i-ốt ở đối tượng này là nghiêm trọng, vì hormon tuyến giáp cần thiết cho sự phát triển của bào thai và sau đẻ. Hơn nữa, sự hư hại hệ thần kinh ở bào thai và trẻ nhỏ do thiếu i-ốt nặng và kéo dài là hậu quả không thể đảo ngược được .
[h=2]Vì sao phụ nữ mang thai cần bổ sung i-ốt?[/h] Phụ nữ độ tuổi sinh đẻ là đối tượng đặc biệt nhạy cảm với tình hình thiếu hụt i-ốt, khi người mẹ mang thai , nhu cầu i-ốt tăng lên để đáp ứng nhu cầu hormon tuyến giáp cho mẹ và sự phát triển bào thai. Khi mẹ thiếu i-ốt, sự phát triển bào thai bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đặc biệt là bộ não của đứa trẻ. Người ta đã chứng minh, thiếu i-ốt ở mẹ từ mức trung bình đến nặng có thể gây chậm phát triển não của thai nhi và sinh ra đứa trẻ chậm phát triển trí tuệ, thậm trí đần độn và/hoặc mang khuyết tật.
Do tầm quan trọng và nhạy cảm của thiếu i-ốt đối với bà mẹ đang mang thai, nuôi con bú, năm 2007, WHO/UNICEF/ICCIDD khuyến cáo sử dụng chỉ số i-ốt niệu của bà mẹ mang thai và nuôi con bú là một chỉ tiêu bổ sung chính thức cho bộ chỉ tiêu phản ánh tình trạng thu nhận i-ốt khi một quốc gia hay khu vực đạt tới trạng thái thanh toán bền vững các rối loạn thiếu i-ốt.
Vì tầm quan trọng này, WHO/UNICEF/ICCIDD khuyến cáo cần có giải pháp tạm thời để bảo vệ nhóm bà mẹ mang thai khi phát hiện mức i-ốt niệu dưới 50mcg/l. Điều này đặc biệt cần thiết khi tình trạng i-ốt niệu thấp xảy ra ở các khu vực mà chương trình không đạt được nhiều tiến triển trong những năm gần đó. Theo khuyến nghị này, cung cấp i-ốt bổ sung dạng viên nang nên cần được đặt ra ngay như một giải pháp tạm thời bảo vệ nhóm phụ nữ mang thai ở miền Tây Nam Bộ và TP.HCM, nơi mà các số liệu cho thấy mức i-ốt niệu trung vị luôn ở mức rất thấp (khoảng 50mcg/l) .
BS. Mai Anh Tuấn
Meo.vn (Theo Sức khỏe & Đời sống)