Quý cuối của thai kỳ, trạng thái học hỏi của thai nhi cho thấy sự chuyển biến từ trừu tượng hoá và khái quát hoá sang cụ thể hoá và khác biệt hoá. Trong quá trình liên kết dùng âm nhạc, người ta thấy thai nhi di chuyển tay một cách nhẹ nhàng...
Một nghiên cứu được thực hiện bởi trường ĐH California ở Irvane cho biết nhạc Mozart có thể tác động đến khả năng toán học và không gian của trẻ. Trên Thời báo LA (11/9/1998) có một bài phóng sự về nghiên cứu thần kinh - sinh học đã chỉ ra "không thể phủ nhận rằng có một môn gọi là sinh học của âm nhạc". Âm nhạc được sinh ra là để đóng vai trò tích cực đối với tương lai của y học.
Những ý kiến dưới đây sẽ cho thấy tầm ảnh hưởng của âm nhạc đến sự phát triển ban đầu của chúng ta.
Michel Odent, tiến sỹ Y học, cho rằng phụ nữ cần phải hát ru con mình, tuy nhiên, quá trình y học hóa khi sinh đã làm xáo trộn việc này. Trong quá khứ, tất cả phụ nữ trên thế giới đều hát ru cho con mình. Điều này thực sự quan trọng khi mà chúng ta đều biết rằng thai nhi bắt đầu hình thành thứ ngôn ngữ đầu tiên của mình khi còn trong bụng mẹ. Những biến tố trong tiếng mẹ đẻ được truyền tải thông qua lời nói và và đặc biệt là các bài hát. Giọng hát bao giờ cũng dải tần số rộng hơn giọng nói. Trên thực tế, những nghiên cứu ở các bộ môn khác như ngôn ngữ học và âm nhạc đã chỉ ra rằng có những lúc nói lại trở thành hát và như vậy, trong nói và hát thì hát có trước.
Tần số là cao độ âm thanh tính theo Hertz (Hz), từ 16-20,000 Hz. Đối với một đứa trẻ khi còn trong bụng mẹ thì giọng nói của mẹ mình bao giờ cũng chính xác và dễ nghe hơn so với giọng nói của những người khác, đặc biệt là những giọng nói có tần số cao hơn. Theo ông Rubel (1984), thai nhi sẽ có phản ứng với âm thanh có tần số thấp trước, sau đó mới đến âm thanh có tần số cao hơn. Verny cùng rất nhiều người khác nhận thấy rằng trẻ em thường yêu thích những câu chuyện, giai điệu hay bài thơ mà chúng được nghe khi còn trong bụng mẹ. Khi người mẹ đọc to lên, đứa trẻ sẽ tiếp nhận âm thanh thông qua tính dẫn thanh của xương.
TS. Henry Truby, GS danh dự về Trẻ em và Ngôn ngữ của ĐH Miami, chỉ ra rằng sau tháng thứ 6, thai nhi bắt đầu cử động theo nhịp điệu khi nói của người mẹ và quang phổ ghi nhận tiếng khóc đầu tiên của đứa trẻ đẻ non khi mới 28 tuần tuổi cũng phù hợp với giọng nói của người mẹ. Những yếu tố của âm nhạc như cao độ, âm sắc, cường độ và nhịp điệu cũng chính là những yếu tố được dùng khi nói. Chính vì thế, âm nhạc sẽ giúp chuẩn bị cho tai, cơ thể và bộ não khả năng nghe, tổng hợp và phát âm. Có thể coi âm nhạc như một thứ tiền ngôn ngữ nuôi dưỡng và kích thích đến toàn bộ con người, có ảnh hưởng đến cơ thể, cảm xúc, trí tuệ và phát triển khả năng thưởng thức vẻ đẹp từ bên trong, xác nhận và đánh thức những phẩm chất không thể diễn tả bằng lời được của chúng ta.
[h=2]Âm thanh và việc học hỏi của thai nhi[/h] Mối liên hệ mạnh mẽ giữa âm thanh/âm nhạc và khả năng nhớ/học hỏi giai đoạn trước khi sinh đã được làm sáng tỏ bởi những nghiên cứu chính thức, những cuộc quan sát cha mẹ, những ghi chép lâm sàng và những báo cáo.
Shetler (1989) ghi nhận rằng 33% chủ đề về thai nhi trong nghiên cứu của ông thể hiện những phản ứng trái ngược nhau với những nhịp trống trong các thể loại nhạc nhanh và chậm khác nhau. Đây có thể là phản ứng đầu tiên và cơ bản nhất của thai nhi với âm nhạc.
Bằng chứng mới cho việc phát triển trí thông minh giai đoạn trước khi sinh được tìm ra bởi William Sallenbach (1984), người đã có những quan sát sâu sắc và hệ thống về chính hành động của con gái mình tuần thứ 32 đến 34 khi còn trong bụng mẹ.
Cho đến gần đầy, phần lớn các nghiên cứu về những quá trình học hỏi từ sớm được tìm thấy ở các lĩnh vực về dân số, địa vị hoặc các chuỗi dấu vết. Tuy nhiên, Sallenbach quan sát thấy rằng ở quý cuối của quá trình mang thai, trạng thái học hỏi của thai nhi cho thấy sự chuyển biến từ trừu tượng hoá và khái quát hoá sang cụ thể hoá và khác biệt hoá. Trong quá trình liên kết dùng âm nhạc, người ta thấy thai nhi di chuyển tay một cách nhẹ nhàng.(Theo LifeBeforeBirth)
Theo:
Eva
Một nghiên cứu được thực hiện bởi trường ĐH California ở Irvane cho biết nhạc Mozart có thể tác động đến khả năng toán học và không gian của trẻ. Trên Thời báo LA (11/9/1998) có một bài phóng sự về nghiên cứu thần kinh - sinh học đã chỉ ra "không thể phủ nhận rằng có một môn gọi là sinh học của âm nhạc". Âm nhạc được sinh ra là để đóng vai trò tích cực đối với tương lai của y học.
Michel Odent, tiến sỹ Y học, cho rằng phụ nữ cần phải hát ru con mình, tuy nhiên, quá trình y học hóa khi sinh đã làm xáo trộn việc này. Trong quá khứ, tất cả phụ nữ trên thế giới đều hát ru cho con mình. Điều này thực sự quan trọng khi mà chúng ta đều biết rằng thai nhi bắt đầu hình thành thứ ngôn ngữ đầu tiên của mình khi còn trong bụng mẹ. Những biến tố trong tiếng mẹ đẻ được truyền tải thông qua lời nói và và đặc biệt là các bài hát. Giọng hát bao giờ cũng dải tần số rộng hơn giọng nói. Trên thực tế, những nghiên cứu ở các bộ môn khác như ngôn ngữ học và âm nhạc đã chỉ ra rằng có những lúc nói lại trở thành hát và như vậy, trong nói và hát thì hát có trước.
Tần số là cao độ âm thanh tính theo Hertz (Hz), từ 16-20,000 Hz. Đối với một đứa trẻ khi còn trong bụng mẹ thì giọng nói của mẹ mình bao giờ cũng chính xác và dễ nghe hơn so với giọng nói của những người khác, đặc biệt là những giọng nói có tần số cao hơn. Theo ông Rubel (1984), thai nhi sẽ có phản ứng với âm thanh có tần số thấp trước, sau đó mới đến âm thanh có tần số cao hơn. Verny cùng rất nhiều người khác nhận thấy rằng trẻ em thường yêu thích những câu chuyện, giai điệu hay bài thơ mà chúng được nghe khi còn trong bụng mẹ. Khi người mẹ đọc to lên, đứa trẻ sẽ tiếp nhận âm thanh thông qua tính dẫn thanh của xương.
[h=2]Âm thanh và việc học hỏi của thai nhi[/h] Mối liên hệ mạnh mẽ giữa âm thanh/âm nhạc và khả năng nhớ/học hỏi giai đoạn trước khi sinh đã được làm sáng tỏ bởi những nghiên cứu chính thức, những cuộc quan sát cha mẹ, những ghi chép lâm sàng và những báo cáo.
Shetler (1989) ghi nhận rằng 33% chủ đề về thai nhi trong nghiên cứu của ông thể hiện những phản ứng trái ngược nhau với những nhịp trống trong các thể loại nhạc nhanh và chậm khác nhau. Đây có thể là phản ứng đầu tiên và cơ bản nhất của thai nhi với âm nhạc.
Cho đến gần đầy, phần lớn các nghiên cứu về những quá trình học hỏi từ sớm được tìm thấy ở các lĩnh vực về dân số, địa vị hoặc các chuỗi dấu vết. Tuy nhiên, Sallenbach quan sát thấy rằng ở quý cuối của quá trình mang thai, trạng thái học hỏi của thai nhi cho thấy sự chuyển biến từ trừu tượng hoá và khái quát hoá sang cụ thể hoá và khác biệt hoá. Trong quá trình liên kết dùng âm nhạc, người ta thấy thai nhi di chuyển tay một cách nhẹ nhàng.(Theo LifeBeforeBirth)
Theo:
Eva